Tâm điểm
Trần Phú Dũng

“Treo thịt bò Wagyu, bán trâu tẩm hóa chất”

Cách đây không lâu báo chí đưa tin một cơ sở dùng hóa chất và thủ thuật để biến thịt trâu thành… thịt bò Wagyu Nhật Bản, bán giá 600 nghìn đồng/kg. Bản tin này chắc hẳn khiến nhiều người từng thưởng thức món thịt bò đắt tiền giật mình, không biết liệu có ăn phải món thịt trâu tẩm hóa chất đó không?

Đằng sau câu chuyện tưởng chỉ là vài mẻ thịt gian dối, là một thực tế đáng buồn và đáng sợ hơn: những kẻ gian thương đã và đang kiếm tiền phi pháp trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, có những lĩnh vực mà xã hội không ngờ tới. Chúng coi việc vi phạm pháp luật là lợi thế cạnh tranh, khiến những người làm ăn tử tế không thể nào cạnh tranh nổi. Thử hình dung thịt bò nhập khẩu làm sao cạnh tranh về giá với thịt trâu tẩm hóa chất?

“Treo thịt bò Wagyu, bán trâu tẩm hóa chất” - 1

Tang vật vi phạm trong vụ "phù phép" thịt trâu thành bò Wagyu bị lực lượng chức năng thu giữ, tháng 10/2025 (Ảnh: DMS).

Từ thực phẩm bẩn, hàng lậu, phân bón giả đến thuốc chữa bệnh, thực phẩm chức năng và các loại mỹ phẩm “pha chế”, tất cả đều có thể mang lại lợi nhuận lớn cho những kẻ gian thương. Chẳng hạn như qua một vài vụ việc liên quan đến người nổi tiếng gần đây, chúng ta đều thấy doanh thu khổng lồ từ sản xuất, kinh doanh bất chính. Một số người trong thời gian ngắn đã sở hữu khối tài sản hàng trăm tỷ đồng, nhiều nhà đất, sổ đỏ.

Trong khi người làm ăn tử tế phải đầu tư bài bản vào quy trình sản xuất, chứng nhận, kiểm nghiệm trước khi đưa sản phẩm ra thị trường, thì kẻ gian lại phớt lờ mọi quy chuẩn, bán sản phẩm với giá thấp và thu lợi nhuận nhanh chóng.

Cơ quan chức năng đã vào cuộc đưa nhiều vụ việc ra ánh sáng, nhưng tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả vẫn “diễn biến phức tạp, phạm vi rộng, đối tượng nhiều, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và lòng tin của nhân dân, gây hoang mang, lo lắng trong dư luận…” như công điện của Thủ tướng Chính phủ vào giữa năm nay. Vẫn còn đó hàng hóa trôi nổi trên mạng, các kênh bán hàng livestream thiếu kiểm soát…

Pháp luật hiện hành quy định khá rõ ràng và nghiêm khắc: sản xuất hoặc buôn bán hàng giả có thể bị phạt hành chính lên tới 1 tỷ đồng; người vi phạm còn có thể bị xử hình sự, với mức án lên tới 15 năm tù tùy theo mức độ; cơ sở sai phạm có thể bị tịch thu phương tiện, đình chỉ hoạt động.

Có thể nói đây là những chế tài rất mạnh, khiến bất kỳ ai trước khi “tay nhúng chàm” cũng phải nghĩ lại. Nhưng thực tế lại cho thấy một nghịch lý: dù chế tài mạnh mẽ, nhiều cá nhân, tổ chức vẫn vi phạm một cách bất chấp. Có lẽ một trong các lý do là, chỉ cần trót lọt vài tháng, lợi nhuận của việc sản xuất, kinh doanh phi pháp thu về đã rất lớn. Một xưởng nhỏ trong hẻm có thể thu lời gấp hàng chục, hàng trăm lần vốn bỏ ra; một đường dây phân phối qua mạng xã hội có thể tiêu thụ hàng nghìn đơn mỗi ngày.

Gian thương có “đất sống” một phần vì chính thói quen tiêu dùng của chúng ta đã tạo ra mảnh đất đó, một sự thật ít người nói nhưng rất thực tế. Nhu cầu mua rẻ, mua nhanh, mua tiện đã biến thành một “khẩu lệnh” vô hình, khiến những kẻ bán gian chỉ cần “biết đọc” tâm lý người tiêu dùng là có thể sinh tồn và sinh lời.

Có bốn thói quen tiêu dùng phổ biến tạo cơ hội cho hàng gian, hàng giả:

Tâm lý ham rẻ – ham khuyến mãi: Ở đây cần nói rõ việc chọn mua hàng giá rẻ là điều bình thường, và trên thị trường có nhiều hàng hóa chính hãng, giá rẻ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Vấn đề là tôi muốn đề cập đến mặt trái của tâm lý ham rẻ. Chỉ một dòng chữ “giảm giá 70%”, “rẻ hơn thị trường một nửa” là đủ để nhiều người bỏ qua kiểm tra nguồn gốc, xuất xứ hay nhãn mác. Khi giá trở thành tiêu chí quyết định duy nhất, thị trường bị bóp méo: sản phẩm kém chất lượng hoặc giả dễ dàng chen vào vì chúng có thể cạnh tranh tốt về giá chứ không phải chất lượng. Kết quả là người tiêu dùng gián tiếp cấp vốn cho nhóm sản xuất phi đạo đức bằng mỗi lần chọn mua “hàng rẻ”.

Không coi trọng xuất xứ và hạn sử dụng: Thói quen không coi trọng thông tin về xuất xứ và hạn sử dụng đã làm mất đi lớp “lá chắn” bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng. Tem, nhãn, chứng nhận, ngày sản xuất, những thông tin mà nhiều người lướt qua vô hình trung trao cho kẻ gian cơ hội kiếm lời.

Ưu tiên tiện lợi ở các kênh không chính thức: Việc mua hàng tại các kênh phân phối không chính thức như vỉa hè, lòng đường, qua xe đẩy hay các điểm bán nhỏ làm giảm khả năng kiểm soát chất lượng. Những kênh này không có hệ thống lưu trữ, kiểm định, bảo quản đúng chuẩn; người bán thường vô danh hoặc thay đổi địa điểm liên tục, gây khó khăn cho việc xử lý vi phạm nếu có.

Dễ bị thuyết phục bởi quảng cáo thiếu kiểm chứng: Khả năng bị thuyết phục bởi quảng cáo, nhất là quảng cáo trên livestream, tạo cơ hội cho thông tin sai lệch lan rộng. Người bán biết điểm yếu này nên sẵn sàng phóng đại, thêu dệt, thậm chí làm giả giấy tờ để bán được hàng.

Từ góc độ kinh tế hành vi, khi lợi ích trước mắt (tiết kiệm, tiện lợi, cảm giác “mua được hàng rẻ”) lớn hơn chi phí tiềm ẩn (rủi ro sức khỏe, tài chính, thời gian khiếu kiện), người tiêu dùng có xu hướng chấp nhận rủi ro. Hệ quả là một vòng xoáy: nhu cầu hàng rẻ nuôi sống kẻ gian, kẻ gian càng tinh vi thì người tiêu dùng càng dễ bị lừa. Khi bị lừa mà chưa có cơ chế bồi thường, cảnh báo hiệu quả, tâm lý cảnh giác của người dân càng giảm đi.

Vì vậy, muốn thu hẹp “đất sống” cho gian thương không chỉ cần tăng năng lực thanh, kiểm tra và phạt nặng, mà còn phải thay đổi thói quen tiêu dùng: nâng cao nhận thức về tem nhãn, ưu tiên mua hàng có nguồn gốc rõ ràng, yêu cầu hóa đơn, nghi ngờ các quảng cáo thiếu bằng chứng, và sẵn sàng tẩy chay, tố giác các kênh bán hàng rủi ro. Chỉ khi người tiêu dùng thay đổi tiêu chí chọn mua: đặt chất lượng, an toàn và truy xuất nguồn gốc lên đầu tiên, thị trường mới không còn chỗ đứng cho những kẻ buôn gian bán lận.

Hệ lụy của hàng giả, hàng kém chất lượng không chỉ dừng lại ở vài sản phẩm bị làm nhái, mà còn tạo ra những vết nứt âm thầm nhưng dai dẳng trong đời sống kinh tế – xã hội.

Trước hết, người tiêu dùng là những người gánh rủi ro trực tiếp nhất.

Một lọ mỹ phẩm pha chế có thể khiến da hỏng chỉ sau vài ngày.

Một mẻ phân bón giả có thể làm mất trắng cả vụ mùa.

Một bình xăng pha tạp chất có thể phá hỏng động cơ, gây tai nạn bất cứ lúc nào.

Những tổn thất này không chỉ là tài chính, mà còn là sức khỏe, an toàn và đôi khi cả tính mạng. Đáng nói là phần lớn người mua không biết mình đang đối mặt với rủi ro cho đến khi hậu quả xảy ra. Nhiều nghiên cứu cho hay khoảng 35% các ca ung thư tại Việt Nam có liên quan đến chế độ ăn và thực phẩm bị ô nhiễm. Tức là, khi thực phẩm bẩn lan rộng, hậu quả không chỉ là ngộ độc cấp tính, mà là gánh nặng ung thư, bệnh mãn tính kéo dài cho xã hội.

Song song đó, các doanh nghiệp làm ăn tử tế phải chịu đòn tấn công hàng ngày, hàng giờ từ hàng giả, hàng gian. Họ đầu tư vào công nghệ, nguyên liệu, kiểm định, chứng nhận… nhưng lại phải đối mặt với sự cạnh tranh từ những sản phẩm có mức giá phi lý. Nỗ lực đổi mới sáng tạo và nâng chuẩn chất lượng vì thế bị “dập tắt” bởi môi trường cạnh tranh thiếu công bằng.

Hệ lụy nghiêm trọng hơn là tác động tiêu cực tới năng lực cạnh tranh quốc gia. Một thị trường tràn lan hàng kém chất lượng khiến môi trường kinh doanh trở nên thiếu minh bạch, chi phí tuân thủ cao nhưng hiệu quả thấp. Doanh nghiệp ngần ngại phát triển sản phẩm chất lượng cao vì sợ bị “đánh úp” bởi hàng giả, hàng giá rẻ.

Khi hành vi gian lận trở thành chiến lược kiếm lời, còn sự tử tế lại trở thành bất lợi, nền kinh tế sẽ bị kéo lùi. Mất niềm tin thị trường là mất đi nền tảng của phát triển bền vững. Vì vậy, hàng giả không chỉ làm hỏng một cây xăng, một lọ mỹ phẩm hay một vụ mùa; nó làm méo mó thị trường, suy giảm niềm tin của người tiêu dùng và bào mòn sức cạnh tranh quốc gia - một cái giá mà toàn xã hội phải trả.

Cùng với việc phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý các vụ việc cụ thể, chúng ta cần một cơ chế giám sát liên tục và có tính hệ thống, giúp phát hiện vi phạm ngay từ gốc.

Một trụ cột khác là áp dụng bắt buộc cơ chế truy xuất nguồn gốc, đặc biệt đối với thực phẩm, thuốc chữa bệnh, hóa mỹ phẩm và vật tư nông nghiệp. Khi mọi sản phẩm đều có “dấu vết” và tổ chức gian lận không còn chỗ ẩn nấp, thị trường sẽ minh bạch hơn. Trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý lĩnh vực, địa bàn cũng cần được đề cao: nếu để xảy ra hàng giả, hàng lậu tràn lan thì phải quy trách nhiệm cụ thể.

Nhưng tất cả những biện pháp đó chỉ thực sự bền vững khi được đi cùng với một yếu tố mang tính nền tảng: giáo dục hành vi tiêu dùng. Người dân cần được trang bị kiến thức để lựa chọn an toàn, biết cách phân biệt sản phẩm, hiểu rõ rủi ro, và quan trọng nhất là nói “không” với hàng hóa không rõ nguồn gốc.

Khi người mua thay đổi, thị trường sẽ thay đổi ; và khi thị trường thay đổi, người sản xuất, kinh doanh tử tế mới có cơ hội đứng vững và phát triển.

Tạo ra một cuộc chơi công bằng không chỉ nhằm xử lý kẻ xấu mà còn để bảo vệ người tốt, nuôi dưỡng niềm tin và xây dựng một môi trường kinh doanh mà sự tử tế không còn bị xem là bất lợi.

Câu chuyện biến thịt trâu thành bò Wagyu chỉ là một ví dụ. Điều đáng nói hơn là khi cái sai vẫn sinh lời, cái đúng luôn khó phát triển.

Tác giả: Ông Trần Phú Dũng, thạc sỹ Luật, có hơn 20 năm kinh nghiệm công tác trong ngành ngân hàng. Ngoài công việc chuyên môn, ông thường chia sẻ góc nhìn cá nhân về các vấn đề đời sống, xã hội với mong muốn góp phần lan tỏa những giá trị tích cực và suy nghĩ sâu sắc đến cộng đồng.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!