TPHCM và viễn cảnh trung tâm hàng hải quốc tế
Trong cuộc họp vào cuối tháng 9 của Ủy ban II về phát triển hạ tầng và các ngành có lợi thế cạnh tranh quốc gia thuộc mô hình Toàn cảnh Kinh tế tư nhân (ViPEL), khối doanh nghiệp tư nhân đã đề xuất xây trung tâm hàng hải quốc tế 10 tỷ USD ở TPHCM, kêu gọi hợp lực công - tư để đưa Việt Nam thành mắt xích quan trọng hơn của thương mại toàn cầu.
Đây là một đề xuất rất kịp thời, và với tư cách là người nghiên cứu về khai thác cảng biển, cá nhân tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định rằng, TPHCM hậu sáp nhập đang có cơ hội rất lớn để vươn lên thành một trung tâm hàng hải mang tầm quốc tế, cả về quy mô vận tải, công nghiệp phụ trợ và vai trò điều phối chuỗi cung ứng trong khu vực.
Trước sáp nhập, TPHCM đã là một thành phố hàng hải có vị trí nhất định. Trong báo cáo Leading Maritime Cities of the World (các thành phố biển hàng đầu thế giới) do hãng tư vấn Menon Economics công bố vào năm 2024, các tác giả lựa chọn 50 cái tên nổi bật trong tổng số trên 15.000 thành phố có các hoạt động hàng hải trên toàn cầu (dựa trên các tiêu chí về vận tải biển, tài chính, công nghệ hàng hải, cảng và logistics…) thì TPHCM xếp hạng 46/50.

Cảng quốc tế Tân Cảng - Cái Mép (Ảnh: Báo BRVT).
Đây là lần thứ ba TPHCM có tên trong danh sách này, trong lần đầu tiên (2019) thứ hạng của thành phố là 40, lần thứ hai (2022), thứ hạng là 45. Có thể nói, cho dù TPHCM đã được công nhận là một mắt xích quan trọng trong hàng hải quốc tế, thì thứ hạng và đà trượt hạng của thành phố trong bảng xếp hạng là dấu hiệu cho thấy chúng ta cần nỗ lực hơn nữa.
Sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu chính là cơ hội để TPHCM tận dụng những thế mạnh của một siêu đô thị và hướng tới trở thành trung tâm hàng hải tầm cỡ thế giới. Hậu sáp nhập, thành phố sở hữu thêm những yếu tố hạ tầng quyết định, trong đó hệ thống cảng biển là điểm nhấn lớn nhất.
Cùng với cảng TPHCM nằm trong nhóm 30 cảng container lớn nhất thế giới, giờ đây cảng nước sâu Cái Mép có thể kết hợp với dự án cảng trung chuyển Cần Giờ và các bến cảng hiện hữu trên địa bàn để trở thành phần lõi trong một hệ sinh thái cảng - công nghiệp - logistics liên vùng. Năng lực tiếp nhận tàu mẹ, khả năng triển khai các tuyến trực tiếp, năng suất nằm vào nhóm những cảng hàng đầu thế giới, tất cả đều làm tăng tính hấp dẫn cho các doanh nghiệp sản xuất, hãng tàu và doanh nghiệp dịch vụ logistics khi lựa chọn TPHCM.
Bên cạnh đó, sự gia nhập của Bình Dương vào không gian đô thị mở rộng mang đến một hậu phương sản xuất và cung ứng dồi dào: khu công nghiệp, nhà máy chế tạo, kho bãi và trung tâm logistics, nơi hàng hóa được tạo ra, đóng gói và xử lý để chuyển đến cảng. Khi các bến cảng và vùng hậu phương hàng hóa kết nối hiệu quả với nhau trong một vùng liên kết và không có khác biệt địa giới hành chính, TPHCM có cơ hội lớn để kéo giảm chi phí logistics cho doanh nghiệp, góp phần tăng sức hấp dẫn cho các tập đoàn muốn đầu tư vào khu vực phía Nam.
Mặc dù cảng biển được xem là thế mạnh của TPHCM, nhưng nhìn vào hạ tầng kết nối giữa cảng biển và vùng hậu phương hàng hóa hiện tại, tôi không tránh khỏi lo lắng. Sau hơn hai thập kỷ lượng hàng hóa tăng trưởng nhanh, hạ tầng logistics tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và TPHCM nói riêng đã cho thấy dấu hiệu quá tải rõ rệt, ùn tắc tại các cửa ngõ ra vào cảng là dấu hiệu điển hình nhất.
Các dự án hạ tầng gồm đường vành đai và cao tốc đang được đẩy mạnh ở TPHCM và khu vực xung quanh là rất cần thiết, nhưng chưa đủ. Hệ thống đường liên cảng, đường kết nối trực tiếp các cụm cảng và khu công nghiệp – logistics nội địa tạo điều kiện cho xe container không phải đi qua khu dân cư chưa được chú trọng đúng mức, khiến xe container vẫn phải đi chung nhiều tuyến đường với phương tiện dân sinh, kéo giảm thời gian khai thác hữu ích của phương tiện và tăng chi phí logistics. Đến nay, đường liên cảng TPHCM vẫn chưa được triển khai, và tuyến đường liên cảng Cái Mép cũng chưa hoàn thiện.
Bên cạnh hạ tầng cảng và logistics, báo cáo của Menon Economics chỉ rõ thêm bốn trụ cột cấu thành một thành phố hàng hải mạnh: vận tải biển, tài chính, luật hàng hải và công nghệ hàng hải, sức hấp dẫn và cạnh tranh. Đây là các trụ cột mà TPHCM (cũ) có còn những mặt hạn chế.
Sáp nhập sẽ tạo ra cơ hội để TPHCM mới có thể cải thiện điểm số trên các trụ cột này, nhưng sự cải thiện sẽ chỉ đến nếu thành phố có một chiến lược đồng bộ và kế hoạch hành động cụ thể trên các lĩnh vực: đầu tư hạ tầng đa phương thức, đổi mới công nghệ, phát triển dịch vụ tài chính có trọng tâm, và nâng cao năng lực nguồn nhân lực chuyên ngành.
Trong tầm nhìn 3 năm tới, việc hiện thực hóa khuôn khổ đó có thể bắt đầu bằng một chuỗi hành động có tính liên kết. Trước hết, cần sớm hoàn thiện kết nối các hành lang đa phương thức giữa khu vực Bình Dương và TPHCM (cũ) với Cái Mép, đặc biệt cần đẩy mạnh đề án xây dựng tuyến đường sắt kết nối tới Cái Mép mà Becamex đang đề xuất.
Tiếp theo, cần đẩy mạnh số hóa cảng và logistics: kết nối dữ liệu dòng hàng, xây dựng và thống nhất hệ thống cộng đồng cảng điện tử, một hệ thống có thể kết nối giữa cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp cảng, hãng tàu, doanh nghiệp logistics và xuất nhập khẩu, nâng cấp các hệ thống hải quan điện tử. Những cải tiến này sẽ giảm chi phí và thời gian lưu thông hàng hóa, tạo sức cạnh tranh ngay lập tức.
Không kém phần quan trọng là xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu phục vụ ngành hàng hải, vì nguồn nhân lực chất lượng mới là chìa khóa giữ chân doanh nghiệp và chuyên gia đầu ngành. Việc TPHCM đang đẩy mạnh quá trình thành lập Trung tâm tài chính quốc tế và phát triển các khu thương mại tự do là những nỗ lực song song hỗ trợ đắc lực cho việc trở thành một Trung tâm hàng hải quốc tế.
Tôi tin rằng cải cách thể chế là điều kiện nền tảng. Nhà đầu tư và các định chế tài chính lớn quyết định đến hay không, không chỉ dựa vào hạ tầng hay ưu đãi đất đai, mà còn dựa vào khả năng giải quyết tranh chấp, tính ổn định luật lệ và năng lực thực thi hợp đồng. Vì vậy mọi bước phát triển hạ tầng đều cần song hành với nỗ lực minh bạch hóa quy trình và tạo môi trường pháp lý dễ dự đoán hơn cho giao dịch xuyên biên giới.
Tương lai TPHCM như một trung tâm hàng hải quốc tế là hoàn toàn khả thi, nếu chúng ta biết tận dụng lợi thế hạ tầng vừa mở rộng và cùng lúc đầu tư vào những yếu tố vô hình nhưng thiết yếu: thể chế, con người và công nghệ.
Giữ được cái nhìn thực tế, kiên định với các mục tiêu đề ra, đồng thời có thái độ thận trọng, làm từng việc một cách bài bản và minh bạch - đó là con đường để TPHCM không chỉ đứng trong danh sách những thành phố hàng hải thế giới, mà còn thực sự dẫn dắt dòng chảy thương mại và chuỗi giá trị của khu vực Đông Nam Á.
Tác giả: Ông Vũ Đặng Dương có gần 20 năm kinh nghiệm trong ngành vận tải biển và khai thác cảng tại Việt Nam. Ông từng làm việc cho nhà khai thác cảng lớn nhất Việt Nam là Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, cũng như một trong những "ông lớn" ngành khai thác cảng toàn cầu là Hutchison Ports (Hong Kong).
Ông Đặng Dương từng đảm nhận vai trò Giám đốc Đối ngoại Công ty Cổ phần Logistics U&I, Trưởng phòng Khai thác cấp cao ZIM Việt Nam tại Hãng tàu ZIM (Israel), cũng như có kinh nghiệm trong việc triển khai dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ông Dương đã xuất bản hai ấn phẩm: Vận tải container đường biển đến năm 2025 (đồng dịch giả) và Cảng biển và Logistics - Nhìn lại một hành trình phát triển (tác giả), đồng thời là người hiệu đính cuốn textbook Logistics và Quản trị Chuỗi cung ứng.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!




















