Tâm điểm
Hoàng Hà

Mua nhà ở xã hội: Đo bằng kilômét đã công bằng?

UBND TPHCM vừa cho phép người đã có nhà vẫn được đăng ký nhà ở xã hội nếu nơi ở cách chỗ làm từ 14,5km (trong phường) hoặc 20km (trong xã) áp dụng từ 1/10 đến 31/5/2030. Mục tiêu của chính sách này rất đúng khi “kéo nhà ở lại gần việc làm”. Nhưng khi lấy km làm thước đo để xem xét cơ hội mua nhà, thì ở góc độ nào đó chúng ta đang dùng một con số cứng cho một bài toán mềm.

Câu hỏi thật sự không phải “bao nhiêu km” mà là “người đi làm có đến được nơi làm việc một cách hợp lý hay không?”.

Kilômét không kể được câu chuyện thời gian bởi 12km qua một cây cầu kẹt có thể “dài” hơn 20km trên tuyến thông thoáng. Người làm ca đêm đi qua đoạn đường vắng, thiếu an toàn thì “đường xa” nằm ở rủi ro chứ không ở bản đồ. Một bà mẹ chở con gửi trẻ dừng ba điểm trên đường thì 8km trở nên đằng đẵng. Khi thước đo khoảng cách không chạm tới thời gian thực và an toàn thực thì ta dễ bỏ sót đúng những người cần hỗ trợ nhất.

Mua nhà ở xã hội: Đo bằng kilômét đã công bằng? - 1

Dự án nhà ở xã hội thuộc Khu dân cư Nguyên Sơn, TPHCM (Ảnh: Hải Long).

Tương tự, một con số cũng khó bao trọn những hoàn cảnh sống khác nhau trong thành phố. Gia đình mà vợ chồng làm hai nơi thì tính theo khoảng cách của ai? Người lao động tự do không có bảo hiểm xã hội hoặc hợp đồng ngắn ngày thì chứng minh chỗ làm bằng cách nào để không bị nghi ngờ? Những nghề di động như nhân viên giao hàng, kỹ thuật bảo trì, hướng dẫn viên… điểm đến thay đổi theo ca, vậy đo tới đâu cho đúng? Nếu chỉ đếm khoảng cách để xét mua nhà ở xã hội dựa trên km thì e rằng, chúng ta rất dễ có những hồ sơ đủ km nhưng xa đời sống, và ngược lại.

“Lộ trình ngắn nhất” trên bản đồ số có vẻ khách quan, nhưng lộ trình ngắn nhất không phải lúc nào cũng khả dụng và hợp lý bởi ở TPHCM thì không thiếu cảnh đường thi công, mưa ngập... Do vậy, người dân cần biết thuật toán chọn tuyến nào, xử lý đường thủy ra sao, sai số cho phép là bao nhiêu và khi con số bất hợp lý thì kiến nghị ở đâu, trong bao lâu được trả lời. Nếu không minh bạch được phép đo, khoảng cách 14,5km hay 20km rất dễ trở thành… một cánh cửa có khóa nhưng không có tay nắm.

Nhìn ra thế giới, thành phố Seoul của Hàn Quốc phát triển mô hình “happy housing” (nhà do chính quyền xây cho thuê với giá rẻ, thiết kế để người lao động trẻ ở được) bên các nút giao công cộng để rút ngắn giờ di chuyển. Còn ở thành phố Vienna tại Áo có chính sách phân bổ tiền và đất cho nhà ở xã hội ở vị trí bám giao thông công cộng. Dự án được ưu tiên nếu nằm trong bán kính đi bộ tới ga metro hoặc bến xe buýt. Thước đo ở đây không phải km mà là thời gian door-to-door (thời gian tính cho hành trình từ cửa nhà đến cửa nơi cần đến). Cơ quan thẩm định tính đủ các bước như đi bộ tới điểm dừng, thời gian chờ, thời gian trên tàu xe, đổi tuyến. Khi vận hành, cư dân nhà ở xã hội ít phụ thuộc ô tô, chi phí sống giảm, giờ đi làm và đón con rút ngắn và ổn định hơn.

Người viết cho rằng, nếu giữ mục tiêu nhà gần nơi làm, chúng ta có thể đưa ra quy định mềm hơn. Theo đó, vẫn giữ ngưỡng km như hàng rào an toàn nhưng bổ sung tiêu chí thời gian đi làm tối đa theo khung giờ thực. Nếu dưới 14,5km mà mỗi sáng vẫn mất hàng giờ vì kẹt xe liên miên thì người dân rất cần được tạo cơ hội tiếp cận nhà ở xã hội. Điều kiện này không làm thủ tục nặng nề nếu thành phố công bố một công cụ đo trực tuyến dùng chung, hiển thị tuyến được chọn, chiều dài, thời gian dự kiến theo giờ, nhật ký đo có mã xác thực. Và khi dữ liệu mở cũng sẽ bớt gây tranh cãi.

Sự công bằng cũng có thể đảm bảo thông qua thiết kế chính sách với những đối tượng “ưu tiên” được định nghĩa rõ, chẳng hạn như người làm ca đêm, người khuyết tật, cha mẹ đơn thân nuôi con nhỏ… Sự ưu tiên ở đây, thiết nghĩ, không có nghĩa là nới rộng tràn lan mà là thừa nhận những thực tế xã hội, và bù lại một phần bằng điểm số minh bạch. Khi đó, chính sách mới hướng đến đúng người, đúng nhu cầu.

Về vấn đề chứng minh nơi làm việc, cần đối soát giữa xác nhận của doanh nghiệp và dữ liệu bảo hiểm xã hội, dữ liệu về thuế với lao động chính thức; còn với lao động phi chính thức, cần cho phép xác nhận của tổ dân phố, công đoàn cơ sở, hiệp hội nghề kèm hậu kiểm ngẫu nhiên cũng như có chế tài rõ ràng để chặn nạn mượn hồ sơ.

Một điều quan trọng là chính sách cần chạy cùng hạ tầng. Khi tuyến metro mới vận hành, cây cầu mới thông xe, khả năng tiếp cận của cả một vùng thay đổi theo. Tôi cho rằng, không cần chờ đến năm 2030 mới tổng kết mà nên đặt các thời điểm rà soát theo từng bước phát triển hạ tầng.

Sẽ có ý kiến e ngại rằng thêm tiêu chí, thủ tục phức tạp hơn, tuy nhiên, nếu người dân có thể tải một biên bản đo km ngay trên điện thoại, thời hạn giải quyết khiếu nại được ấn định và thực hiện; nếu hội đồng xét duyệt nhìn vào thời gian di chuyển thay vì chỉ căn cứ độ dài quãng đường thì chính sách sẽ gần đời sống mà không tăng gánh nặng hành chính. Lúc đó, mỗi căn nhà ở xã hội sẽ không chỉ rút ngắn quãng đường mà còn góp phần vào công bằng xã hội.

Tác giả: Hoàng Hà là luật sư thuộc Đoàn Luật sư TPHCM, Luật gia thuộc Hội Luật gia Việt Nam. Anh tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội, thạc sĩ Luật Kinh tế tại Đại học Kinh tế TPHCM.

Anh quan tâm đến các vấn đề pháp lý gắn liền với đời sống kinh tế và xã hội, hướng tới cách tiếp cận pháp lý công bằng, hợp lý và nhân văn. Ngoài hoạt động dịch vụ pháp lý thông thường của luật sư, anh tham gia viết bài nghiên cứu, bình luận pháp lý góp tiếng nói học thuật và thực tiễn về những vấn đề pháp luật nổi bật trong xã hội.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!