DNews

Việt Nam sau 80 năm độc lập: Thành quả kinh tế rực rỡ, cơ hội lớn

Tuấn Minh

(Dân trí) - Sau 80 năm giành độc lập, Việt Nam từ một nước nghèo trở thành quốc gia thu nhập trung bình. Đến năm 2045, mục tiêu lớn là đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia tiên tiến, đạt thu nhập cao.

Việt Nam sau 80 năm độc lập: Thành quả kinh tế rực rỡ, cơ hội lớn

Hai dấu mốc quan trọng định hình con đường phát triển

Sau 80 năm độc lập, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng. Hành trình này không chỉ là những con số ấn tượng về tăng trưởng mà còn là minh chứng cho ý chí sáng tạo, kiên cường của cả dân tộc.

Ngày 31/8, báo Dân trí tổ chức tọa đàm trực tuyến “80 năm Độc lập - Bản lĩnh kinh tế, khát vọng phát triển” . Các khách mời cùng nhìn lại hành trình 80 năm bản lĩnh kinh tế Việt Nam, đồng thời chia sẻ khát vọng cùng các giải pháp để nền kinh tế tiếp tục bứt phá, vươn tầm khu vực và thế giới.

TS Bùi Thanh Minh, Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV), chia sẻ, chặng đường phát triển nền kinh tế 80 năm qua của Việt Nam có rất nhiều thăng trầm. Trong 80 năm qua, đất nước ta đã trải qua chiến tranh, những giai đoạn khó khăn vì bao vây cấm vận cũng như những hạn chế từ định hướng ban đầu chưa thật sự phù hợp. 

Việt Nam sau 80 năm độc lập: Thành quả kinh tế rực rỡ, cơ hội lớn - 1

Các khách mời tại tọa đàm "80 năm độc lập - Bản lĩnh kinh tế, khát vọng phát triển" do báo Dân trí tổ chức (Ảnh: Mạnh Quân).

Trên hành trình học hỏi và phát triển, chúng ta từng có những sai lầm, nhưng điều quan trọng là đã biết đứng dậy, điều chỉnh và vượt qua trong bối cảnh tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng. Nếu nhìn toàn bộ chặng đường ấy để lựa chọn một dấu mốc nổi bật, hẳn là rất khó, bởi mỗi giai đoạn đều in đậm dấu ấn.

Tuy nhiên, có 2 cột mốc đặc biệt quan trọng đã định hình con đường phát triển của dân tộc. Thứ nhất là năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Đây là điều kiện nền tảng và tiên quyết cho tất cả những bước phát triển sau này, kể cả phát triển kinh tế. 

Dấu ấn quan trọng thứ 2 là năm 1986, khi đất nước tiến hành công cuộc Đổi mới, chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là “chiếc la bàn” mới, tạo ra bước ngoặt lịch sử khi bản chất của quan hệ sản xuất được thay đổi, lực lượng sản xuất được giải phóng. 

Đồng tình với ý kiến trên, ông Vũ Thanh Thắng, Giám đốc Trí tuệ nhân tạo CAIO - Founder Công ty cổ phần An ninh mạng SCS, cho rằng, năm 1986, đất nước chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông tin đây là dấu mốc quan trọng nhất của nền kinh tế. Lúc đó thị trường mới có những doanh nghiệp lớn như FPT, CMC… 

Ông Thắng cho rằng, vấn đề quan trọng nhất với doanh nghiệp là năm 1995 khi chúng ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ, xóa bỏ cấm vận, bắt đầu phát triển xuất khẩu nông lâm thủy sản trên toàn cầu. 

Năm 1997 Việt Nam bắt đầu kết nối internet. Ông cho rằng, đây là nguồn tri thức vô hạn mà chúng ta có. Với nguồn tri thức của toàn thế giới, doanh nghiệp Việt sẽ có những bước phát triển mạnh, là yếu tố quan trọng với doanh nghiệp. Với doanh nghiệp ngoài tự chủ sản xuất thì còn là kết nối với thế giới, làm sao đưa được sản phẩm công nghệ ra toàn cầu.

Việt Nam đang trên hành trình tiến tới mục tiêu có thu nhập cao

Theo TS Bùi Thanh Minh, Việt Nam đã ghi nhận những thành tựu rõ rệt, từ một quốc gia nghèo nhanh chóng vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và đến nay đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Việc huy động sức mạnh của các thành phần kinh tế, khơi dậy tinh thần kiến quốc trong nhân dân và doanh nghiệp đã tạo nên những thành tựu rất lớn. Trải qua 40 năm đổi mới, từ một quốc gia nghèo khó, Việt Nam đã vươn lên thành nước có thu nhập trung bình và đang trên hành trình tiến tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao.

Việt Nam sau 80 năm độc lập: Thành quả kinh tế rực rỡ, cơ hội lớn - 2

Việt Nam hướng đến mục tiêu thu nhập trung bình gần 4.800 USD (Ảnh minh họa: Mạnh Quân).

Theo ông Minh, nếu nhìn tổng thể năm 2024, GDP của Việt Nam đạt 476 tỷ USD, đứng thứ 33 trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam nằm trong top các quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Năm nay, Việt Nam hướng đến mục tiêu thu nhập trung bình gần 4.800 USD, nghĩa là Việt Nam đã bước một chân vào nhóm các nước có thu nhập trung bình cao - một thành tựu rất đáng ghi nhận.

Về thu hút vốn FDI, năm 2024 Việt Nam thu hút được hơn 38 tỷ USD. Từ khi mở cửa hội nhập, Việt Nam luôn là quốc gia thu hút FDI tốt trên thế giới. Nền kinh tế cũng ghi nhận thành tựu lớn trong xuất khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 đạt 786 tỷ USD, hàng hóa Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường trọng điểm toàn cầu, khẳng định chất lượng và niềm tin trong chuỗi giá trị quốc tế. 

Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế đã mang lại những thụ hưởng trực tiếp cho người dân. Đời sống được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo năm 2024 còn dưới 2%, trong đó nghèo đa chiều khoảng 4% - những con số rất đáng tự hào. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều chuỗi giá trị toàn cầu và ký kết nhiều FTA: hiện có 20 FTA, trong đó 16 FTA đã được thực thi.

Nhìn vào kết quả giai đoạn 2024-2025 và soi chiếu lại 80 năm qua, có thể thấy những thành tựu nổi bật. Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với độc lập của đất nước và tự do của nhân dân, doanh nghiệp. 

Thứ hai, hình thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập, với nhiều tập đoàn lớn hoạt động tại Việt Nam, hàng hóa Việt Nam xuất hiện trên thị trường toàn cầu, đồng thời tiên phong trong các vấn đề quốc tế quan trọng như chuyển đổi xanh, hướng tới netzero. Thứ ba, thành tựu kinh tế đi vào đời sống người dân, giúp người dân có độc lập, tự do và hướng tới hạnh phúc.

Trong suốt 80 năm qua, người dân đã thụ hưởng nhiều kết quả từ phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình này cũng tạo ra nền tảng quan trọng về kinh tế, xã hội và thể chế, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình. Từ việc vượt qua khó khăn chiến tranh, biến động bên ngoài, Việt Nam đã chuyển từ một nước nghèo trở thành quốc gia thu nhập trung bình. Trong 20 năm tới, mục tiêu lớn là đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia tiên tiến, đạt thu nhập cao vào năm 2045.

Bộ tứ chiến lược trong giai đoạn phát triển mới

TS Bùi Thanh Minh cho rằng, Việt Nam đang bước vào một năm bản lề của giai đoạn phát triển mới, có thể mạnh dạn gọi là đổi mới 2.0, khi đã có “bộ tứ chiến lược”: Nghị quyết 57 về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết 66 về đột phá thể chế; và Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế, cùng những nghị quyết sắp tới về giáo dục, y tế. 

Những nghị quyết này đã làm rõ nội hàm của một mô hình tăng trưởng mới, nhấn mạnh dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, thay vì dựa trên thâm dụng tài nguyên và lao động như 30-40 năm qua.

Với Nghị quyết 68, ông cho rằng, Việt Nam đã tạo ra luật chơi công bằng, giải phóng khu vực kinh tế tư nhân - nơi có khả năng chấp nhận rủi ro cao, tiên phong trong đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học công nghệ. Khi kết hợp bộ tứ chiến lược với các nghị quyết tiếp theo, chúng ta gần như đã có đầy đủ khung cho mô hình tăng trưởng trong thời kỳ mới. 

Trong kinh tế phát triển, thường nhắc đến hai mô hình: mô hình Đông Á (Nhật Bản, Trung Quốc) và Đông Nam Á (các quốc gia ASEAN). Thành công của Đông Á dựa vào kinh tế hướng xuất khẩu, nhà nước kiến tạo phát triển, và sự dẫn dắt của các doanh nghiệp lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp cũng có nhiều lợi thế. Khi mô hình tăng trưởng chuyển sang dựa trên đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ, các nhiệm vụ quốc gia được trao cho khu vực kinh tế tư nhân, mở ra cơ hội mới. 

Thứ nhất, sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô tạo nền tảng quan trọng, đặc biệt khi so sánh với bất ổn địa chính trị toàn cầu. Thứ hai, mô hình tăng trưởng mới thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực khoa học công nghệ – yếu tố quyết định để trở thành nước thu nhập cao. Nếu không dựa vào khoa học công nghệ, Việt Nam sẽ khó nâng giá trị hàng hóa, khó gia nhập chuỗi giá trị cao của các quốc gia tiên tiến.

Ông cho rằng, từ nước nghèo trở thành nước thu nhập trung bình là việc tương đối đơn giản, nhờ tăng trưởng dựa vào tài nguyên và lao động. Nhưng để từ thu nhập trung bình trở thành nước thu nhập cao, cần tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và nâng năng suất lao động. Điều này đòi hỏi đổi mới sáng tạo, đưa đất nước lên chuỗi giá trị cao hơn. 

Nếu thành công, Việt Nam sẽ trở thành lựa chọn sáng giá trong thế kỷ 21, theo đánh giá của nhiều chuyên gia quốc tế và doanh nghiệp. Cuối cùng, môi trường chính sách đóng vai trò then chốt. 

Trải qua 30 năm, doanh nghiệp Việt Nam tích lũy tri thức quản trị, kinh nghiệm tiếp cận thị trường quốc tế, đặc biệt từ sau khi Mỹ bỏ cấm vận năm 1995. Họ không chỉ hiểu thị trường trong nước, mà còn có khát vọng vươn ra toàn cầu. Sự hiện diện ngày càng nhiều của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế là minh chứng rõ ràng cho chủ quyền kinh tế và khát vọng quốc gia.

Ông Vũ Thanh Thắng cho rằng, doanh nghiệp cần đặt ra tiêu chuẩn kép, bởi vì việc phát triển nhanh và phát triển xanh mang tính mâu thuẫn. Ví dụ với mục tiêu như thế cần đặt ra bao nhiêu % để phát triển xanh. Đây là yếu tố then chốt bởi vì nếu không có mục tiêu cụ thể sẽ không đo lường được và không biết chúng ta đang ở đâu.

Yếu tố thứ 2 cũng quan trọng là ứng dụng khoa học công nghệ trong vận hành doanh nghiệp. Nếu như có thể ứng dụng khoa học công nghệ cao trong vận hành doanh nghiệp sẽ giảm thiểu được nhiều chi phí liên quan đến nhân lực, môi trường và tự nhiên chuyển đổi từ mô hình nhanh sang mô hình tạo ra những giá trị lớn.

Việt Nam đang đứng ở trung tâm ở cuộc cách mạng 4.0 mà dữ liệu và AI là trọng tâm. Ông Thắng có niềm tin mạnh mẽ rằng AI sẽ giúp nước ta có những thay đổi sâu sắc, vừa phát triển nhanh nhưng vẫn phát triển bền vững.