(Dân trí) - Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu nhấn mạnh quân đội là “của dân, do dân và vì dân”. Từ khi thành lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ba nhiệm vụ chính của quân đội.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh 2/9, phóng viên báo Dân trí đã có cuộc trao đổi với Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên BCH Trung ương Đảng (Khóa VIII, IX, X), nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, về những kỷ niệm trong cuộc đời binh nghiệp của ông cũng như sự phát triển của đất nước.


Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ tương lai, vận mệnh của mình.
Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Tám cũng đã góp phần đánh bại tàn dư của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam, là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc ta và là thắng lợi vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám cũng đã cổ vũ nhân dân ta kiên cường đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chứng minh một chân lý là các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do dân tộc đó nhất định sẽ thắng lợi.
80 năm đã qua nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị, ngày càng tỏa sáng và đó là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc.
Ngày 2/9/1945 đã đi vào lịch sử, là ngày độc lập dân tộc, chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta, đồng thời mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hơn 50 vạn dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới: Khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày Quốc khánh 2/9 như một “chứng nhân lịch sử" và mỗi khi nhắc đến chúng ta lại bùng lên những cảm xúc thiêng liêng, xúc động và lòng tự hào dân tộc.
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn để toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ Độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Và trong suốt 80 năm qua, dân tộc ta đã giành được những thắng lợi to lớn trước giặc ngoại xâm và phát triển đất nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta tiếp tục cuộc chiến với 2 cường quốc là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong thời kỳ chống Pháp, dân tộc Việt Nam chúng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do thà hy sinh tất cả nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".
Chúng ta đã đánh bại thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc. Điểm nhấn của cuộc kháng chiến chống Pháp là chiến thắng Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một mốc son lịch sử chói lọi trong giai đoạn chống Pháp, buộc Pháp phải ký Hiệp định Geneve 1954. Hiệp định Geneve đã góp phần vào việc chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp của Mỹ ở Đông Dương.
Sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, chúng ta xây dựng đất nước ở miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ hơn 20 năm để thực hiện ước mong của cả dân tộc và lời kêu gọi của Bác Hồ: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi!”.

Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, và cả dân tộc Việt Nam ta thực hiện lời hiệu triệu của Bác Hồ tiếp tục cuộc kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, trường kỳ.
Đến ngày 30/4/1975, sau hơn 20 năm kháng chiến trường kỳ với nhiều trận đánh ác liệt, ghi vào lịch sử chúng ta đã giành chiến thắng trước đế quốc Mỹ. Khi chiến tranh kết thúc, chúng ta lại tiếp tục đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách mới là cấm vận, thiên tai, lũ lụt,...
Trong đó những năm 1980, đất nước gặp nhiều khó khăn phải đi mua gạo để ăn, gần như xây dựng mọi thứ từ con số không. Nhưng chính trong khó khăn đó, chúng ta đã có đường lối đổi mới, kêu gọi sự ủng hộ, hỗ trợ của các nước yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới.
Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của bạn bè thế giới nên đã được các nước đồng tình và ủng hộ.
Đặc biệt là 5 nước thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đều có trụ sở tại Việt Nam. Với quyết tâm cao, nội lực mạnh mẽ và có sự giúp đỡ của các nước, Việt Nam đã dần vượt qua được những khó khăn và khôi phục kinh tế, phát triển đất nước.
Hiện nay Việt Nam không chỉ thực hiện những nhiệm vụ trong nước mà còn đưa lực lượng gìn giữ hòa bình, tham gia các hoạt động ở nước ngoài như tham gia khắc phục động đất ở Myanmar, Thổ Nhĩ Kỳ,... điều này là những nét đẹp của Việt Nam được bạn bè khắp năm châu đánh giá cao.
Đặc biệt là nền công nghiệp quốc phòng nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng.


Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội “của dân, do dân và vì dân”. Từ khi thành lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ba nhiệm vụ chính của quân đội là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất.
Quân đội ta đã có đóng góp to lớn vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Nổi bật có thể kể đến là Chiến thắng Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống Pháp và thắng lợi của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai nhiều giải pháp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị và làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tập trung xây dựng quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.
Quân đội là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

80 năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn phát huy tinh thần tự lực, tự cường, chủ động xây dựng và phát triển kinh tế bằng các hình thức phù hợp, góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của dân tộc. Quân đội ta đã xây dựng được “thế trận lòng dân”.
Đặc biệt là nền công nghiệp quốc phòng của nước ta đang tiến lên mạnh mẽ, phát triển theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, sản xuất trong nước với hợp tác quốc tế.
Chúng ta đang xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng bằng trí tuệ Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, con người Việt Nam để sáng tạo ra các trang bị vũ khí phù hợp trên đất liền, trên không, và kể cả trên biển.
Việt Nam đang làm chủ khoa học, làm chủ công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới, đặc biệt là chiến tranh trong tương lai, chiến tranh công nghệ cao.
Những thành tựu đạt được qua các chặng đường phát triển của công nghiệp quốc phòng Việt Nam là vô cùng quan trọng, đóng góp hiệu quả cho các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công nghiệp quốc phòng là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, vừa sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng quân sự vừa tham gia sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng dân dụng và hầu hết các quốc gia đều chú trọng tính lưỡng dụng để đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới vào nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản phẩm quốc phòng.


Sau chiến tranh tôi có nhiều dịp đi thăm lại các chiến trường xưa và đồng đội, đặc biệt là chiến trường Quảng Trị.
Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, Quảng Trị là một trong những chiến trường ác liệt. Kết thúc chiến tranh mảnh đất này có hơn 18.000 liệt sĩ và hơn 11.000 thương binh, người hưởng chế độ chính sách như thương binh và hàng vạn người có công với cách mạng.
Quảng Trị có 72 nghĩa trang liệt sĩ, trong đó có hai nghĩa trang quốc gia là nơi yên nghỉ của hơn 6 vạn anh hùng liệt sĩ.
Từ một chiến trường khốc liệt, đổ nát nay Quảng Trị đã khoác lên mình tấm áo mới to đẹp, mạnh mẽ. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao rõ rệt, thể hiện qua sự phát triển của các lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa và du lịch.
Không ai có thể nghĩ rằng từ một chiến trường đổ nát Quảng Trị lại có thể phát triển nhanh, mạnh đến vậy.

Kể từ ngày giành được độc lập dân tộc, Bắc - Nam sum vầy một nhà đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến xã hội và văn hóa.
Đặc biệt, nền kinh tế đã chuyển từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một nền kinh tế đa dạng, hội nhập quốc tế.
Ngoài sự phát triển về kinh tế, các địa phương "thay da, đổi thịt" hàng ngày, tôi cần phải nhấn mạnh rằng dân tộc ta luôn coi trọng đạo lý "uống nước nhớ nguồn”. Điều này được thể hiện cụ thể vào những dịp trọng đại của đất nước, ngày lễ lớn khi mà Đảng, Nhà nước, người dân, các tổ chức, đoàn thể đều có các hoạt động nổi bật tri ân đối với những người, gia đình có công với cách mạng.
Tôi vừa có dịp đi dọc đất nước 20 ngày và nhận thấy rằng không chỉ nhân dân trong nước tri ân những người có công với đất nước mà cả kiều bào ta ở nước ngoài cũng có nhiều hoạt động ý nghĩa.
Đặc biệt, tôi thấy tầng lớp trẻ như học sinh, sinh viên cũng được gia đình, nhà trường đưa đến những khu di tích, những nơi từng bị bom đạn của chiến tranh tàn phá khốc liệt để góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, khơi dậy truyền thống "uống nước nhớ nguồn".
Theo tôi, đối với thế hệ trẻ ngoài việc bồi dưỡng về chuyên môn, đạo đức để xây dựng và phát triển đất nước cần phải phát huy đạo lý "uống nước nhớ nguồn", tưởng nhớ cội nguồn, tri ân công lao của cha ông đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc.


Tôi đã từng tham gia trực tiếp vào lễ duyệt binh tại Quảng trường Ba Đình cách đây 40 năm. Khi được tham gia cuộc duyệt binh đó nó tạo nên cho chúng tôi một tinh thần tự tôn dân tộc vô cùng lớn.
Và tại cuộc diễu binh, diễu hành lần này khi có sự tham gia của các khối khí tài quân sự tôi cũng tin tưởng rằng nó sẽ tạo nên niềm tin, sự hưng phấn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc đối với các bạn trẻ. Từ đó thế hệ trẻ sẽ cố gắng phấn đấu để làm chủ vận mệnh của mình, đóng góp vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ở hiện tại, cũng như tương lai.
Tôi cho rằng diễu binh và duyệt binh đều thể hiện sức mạnh quân sự của đất nước và đều có sự tham dự của các lực lượng như hải quân, lục quân, phòng không - không quân. Song duyệt binh có quy mô lớn hơn rất nhiều so với diễu binh.

Cụ thể đối với diễu binh sẽ không có đội hình phương tiện, vũ khí quân sự. Còn duyệt binh thì sau các khối lục quân, công an nhân dân, nhân dân, trí thức,... là khối xe pháo như xe tăng, tên lửa, pháo binh,... của các quân - binh chủng (đại diện những phương tiện, vũ khí đã qua chiến đấu và những phương tiện, vũ khí mới) trong biên chế của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong lễ duyệt binh đi đầu có thể là khối xe tăng của Quân đội và tiếp đó là đội hình của pháo binh gồm tên lửa, radar, xe thông tin, xe tác chiến điện tử,...
Duyệt binh hay diễu binh là hình thức biểu dương lực lượng vũ trang, thể hiện sự vững mạnh của đất nước về quân sự, an ninh và tinh thần sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Tham gia diễu binh các lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân thể hiện sự gắn kết giữa quân và dân – tất cả đều chung ý chí, chung hành động.
Các cuộc diễu binh, duyệt binh lớn không chỉ nhắc lại truyền thống hào hùng của dân tộc mà còn truyền tải thông điệp Việt Nam luôn sẵn sàng bảo vệ thành quả cách mạng, sẵn sàng đối mặt với mọi thử thách.
Đặc biệt đây cũng là dịp để Việt Nam gửi tới bạn bè quốc tế thông điệp về một dân tộc yêu chuộng hòa bình nhưng sẵn sàng đấu tranh không khoan nhượng trước mọi hành động xâm lược.
Nhân dịp này tôi cũng có một thông điệp muốn gửi đến các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ là cần phải phát huy đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Thế hệ trẻ cần phải phấn đấu để làm chủ được khoa học - công nghệ, làm chủ được vận mệnh của mình trong điều kiện hội nhập mới để xây dựng và phát triển đất nước.