Nỗi đau mùa lũ
Tôi sinh ra ở miền Trung - nơi người ta quen gọi là “dải đất gió Lào cát trắng”, nhưng còn có một cách gọi khác là “dải đất của những mùa lũ nối dài”.
Với tôi, ký ức tháng 11/1999 vẫn còn nguyên như vết khắc sâu: nước ngập đến mái nhà, những tiếng kêu cứu vang giữa đêm, những con thuyền chở cả gia đình và gia súc, những cánh tay với lên tuyệt vọng.
26 năm trôi qua. Sáng 28/10, khi nhìn thấy hình ảnh người dân xã Trà Đốc, Đà Nẵng, khiêng quan tài vượt lũ, tôi thấy mình trở về đúng ký ức ấy - nỗi đau không bao giờ cũ.

Hơn 10 người khiêng quan tài qua dòng suối chảy xiết đưa người quá cố đi chôn cất (Ảnh cắt từ clip).
Giữa dòng nước đục ngầu, một nhóm người gồng mình khiêng chiếc quan tài màu vàng vượt qua con suối mùa lũ. Dòng nước xiết ngang bụng, chảy dữ dội đến mức những thân hình ấy phải nghiêng người chống đỡ, giữ lấy sự vẹn toàn cho người đã khuất. Đó là hình ảnh không ai muốn thấy - nhưng nó vẫn diễn ra, thật đau buồn.
Cùng thời điểm ấy, ở xã Hòa Tiến (Đà Nẵng), lực lượng Quân khu 5 hỗ trợ đưa linh cữu một người đã khuất ra khỏi khu vực bị cô lập để gia đình kịp an táng. Ở Huế, một gia quyến khác thuê xe tải chở quan tài người thân chạy lũ, dùng bạt che mưa, đỗ tạm trên đoạn đường cao chờ nước rút. Một đám tang khác, trong cảnh ngập sâu, quan tài được kê lên bàn thờ giữa ngôi nhà nước ngập đến ngực. Không tiếng kèn trống, không đưa tiễn, chỉ có tiếng mưa và ánh đèn pin lập lòe.
Miền Trung đã quá quen với mưa lũ, nhưng lũ lụt năm nào cũng khiến lòng người tan nát. Bởi nước cuốn đi không chỉ sinh kế, nhà cửa của nhiều người dân, mà còn khiến nghi lễ cuối cùng của một đời người thêm đau xót. Đó không chỉ là thiên tai, mà còn là bi kịch của nhân sinh.
Trong cảnh mênh mông nước lũ, thật khó để diễn tả hết cảm xúc khi thấy những người lính Quân khu 5 lội giữa dòng nước xiết, dìu từng cụ già, bế từng đứa trẻ, rồi cùng người dân gánh vác linh cữu vượt qua dòng lũ. Tôi rưng rưng nhớ lại trận lũ năm 1999, những người lính cũng như thế - họ chèo ghe đi suốt đêm, mang mì gói, gạo khô đến từng nhà, rồi quay lại chở những người bệnh, người già đến nơi an toàn.
Lũ lụt có thể là quy luật tự nhiên, nhưng chúng ta phải nhìn thẳng vào một sự thật: hàng chục năm qua, sông suối bị thu hẹp, rừng phòng hộ bị tàn phá, hệ thống thoát nước bị bê tông hóa, khiến mỗi trận mưa lớn đều có thể chuyển thành ngập lụt cục bộ hoặc diện rộng, nặng hơn thì lũ lụt cả một vùng.
Khi nhìn những nơi từng được mệnh danh là “đô thị đáng sống”, “đô thị di sản” chìm trong nước lũ, chúng ta cần suy nghĩ về nguyên nhân sâu xa nằm ở cách con người đối xử với tự nhiên. Khi đất rừng bị san phẳng cho dự án du lịch, bị thu hẹp cho dự án thủy điện, khi đô thị hóa không có quy hoạch thoát nước phù hợp.v.v.., thì thiên tai khắc nghiệt đâu chỉ do “ông trời” mà còn là chuỗi những điều do con người gây nên, ngày này qua tháng khác tích tụ lại khiến “giọt nước tràn ly”.
Con người không thể ngăn mưa, đặc biệt là mưa lớn lập kỷ lục như những ngày vừa qua ở miền Trung, nhưng như các chuyên gia đã nhận định: con người có thể ngăn lũ lụt trở thành thảm họa khi chuyển cách tiếp cận từ “ứng phó bị động” sang “quản lý rủi ro thiên tai chủ động” – quá trình chủ động nhận diện, đánh giá và hành động để giảm nhẹ rủi ro thiên tai.
Nhiều người miền Trung mang trong mình bản lĩnh đặc biệt. Họ vẫn cười giữa đống bùn non, vẫn nhóm bếp sau khi nước rút, vẫn dựng lại mái nhà bằng đôi tay gầy guộc. Nhưng sự kiên cường ấy không thể mãi được coi là điều tất yếu. Chuyển trạng thái sang “quản lý rủi ro thiên tai chủ động” bằng cách đầu tư đúng mức vào hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ lưu vực sông, xây dựng bản đồ ngập chi tiết và hệ thống cảnh báo sớm, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường… phải là những nguyên tắc tất yếu.
Trong thực tế, công tác phòng chống, ứng phó với thiên tai, mưa lũ luôn có sự vào cuộc trách nhiệm, kịp thời của cả hệ thống, của chính quyền các cấp và các lực lượng chức năng. Như chia sẻ của Chủ tịch UBND thành phố Huế trên báo Dân trí, đỉnh lũ trên sông Bồ lần này đã vượt mức của trận lũ lịch sử năm 1999. Còn trên sông Hương, đỉnh lũ gần chạm mốc của năm 1999. Có thể nói, đây là trận lũ rất đặc biệt, hiếm gặp trong hàng chục năm qua. Trong bối cảnh đó, “nhờ có sự chủ động từ sớm, thành phố đã hạn chế được phần nào thiệt hại”.

Mưa lịch sử gây lũ lớn tại cố đô Huế (Ảnh: Anh Tuấn).
Thiên tai ngày càng khắc nghiệt, khó lường, chính vì vậy “sự chủ động” như cách nói của lãnh đạo thành phố Huế - hay “quản lý rủi ro thiên tai chủ động” theo cách nói của các chuyên gia -càng phải là ưu tiên trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước nói chung và của miền Trung nói riêng. Trước mắt có thể điểm qua vài việc cụ thể như: phân vùng nguy cơ, lập bản đồ ngập lụt chi tiết; áp dụng quy hoạch đô thị thích ứng (hệ thống thoát nước mở, hồ điều hòa, hành lang thoát lũ không bị lấn chiếm)… Chúng ta cũng cần các chính sách an sinh như bảo hiểm thiên tai cho hộ nghèo, quỹ cứu trợ cho vùng dễ tổn thương, và tăng cường hơn nữa việc đào tạo kỹ năng ứng phó lũ lụt trong cộng đồng để bổ sung cho kinh nghiệm truyền thống.
Tôi vẫn nhớ, sau trận lũ lụt năm 1999, mẹ tôi - người phụ nữ nhỏ bé ở Quảng Nam - nói một câu mà đến nay tôi vẫn thấy thấm: “Nước rút, lòng người lại đầy lại”. Đó là lúc ngoại tôi cùng bà con trong xóm được gọi tên nhận quà cứu trợ từ nhiều đoàn thiện nguyện ở khắp mọi miền đến trao tận nơi. Có lẽ, giữa những mùa mưa nối dài, một trong những điều giữ người miền Trung không gục ngã chính là tình người - thứ mà bão lũ nào cũng không thể cuốn đi.
Nhưng, để những câu chuyện như “người chết chạy lụt” không còn tái diễn, chúng ta cần thêm hành động.
Tác giả: Ông Lưu Đình Long là nhà báo, cư sĩ, từng làm công tác tòa soạn tại báo Giác Ngộ; tác giả của các đầu sách: Lắng nghe hơi thở, Tâm kinh mình thuyết cho mình, Như mây thong dong, Như gió an lành, Bình an mà sống, Sống tích cực, thương chân thành.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!




















