Tâm điểm
Bùi Hoài Sơn

“Công nghiệp văn hóa” từ ngày đầu bỡ ngỡ đến chiến lược quốc gia

Khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2486/QĐ-TTg ngày 14/11, phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 (Chiến lược 2486), tôi bất giác nhớ lại những ngày đầu tiên đầy bỡ ngỡ trong nhận thức của nhiều người về khái niệm “công nghiệp văn hóa”.

Những gì chúng ta đang chứng kiến hôm nay về sự phát triển của công nghiệp văn hóa Việt Nam, từ các festival rực rỡ, những không gian sáng tạo sôi động, những sản phẩm văn hóa - nghệ thuật có thương hiệu không chỉ thu hút khán giả trong nước mà còn lan tỏa mạnh mẽ ra thế giới, đến vai trò ngày càng lớn của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội, có thể nói đều là “trái ngọt” của một hành trình rất dài, đầy trăn trở, vất vả và không ít nỗi cô đơn của nhiều thế hệ làm văn hóa, bất kể họ thuộc lĩnh vực công hay tư.

“Công nghiệp văn hóa” từ ngày đầu bỡ ngỡ đến chiến lược quốc gia - 1

Hình ảnh sân khấu của một đại nhạc hội (Ảnh: Nguyễn Hà Nam).

Để thấy được ý nghĩa của Chiến lược 2486, phải quay lại nhìn thật sâu vào chặng đường khởi đầu đầy gian nan của chúng ta.

Năm 2007, Việt Nam chính thức tham gia Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy các biểu đạt đa dạng của văn hóa của UNESCO. Công ước này có hai thông điệp lớn: thứ nhất, các quốc gia có chủ quyền văn hóa; thứ hai, phát triển công nghiệp văn hóa chính là giải pháp để bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa quốc gia trước làn sóng toàn cầu hóa. Công ước 2005 được xem là một trong những công ước thành công nhất của UNESCO vì nó khơi gợi nền tảng của sức mạnh mềm: để không trở thành “bản sao mờ” trong thế giới phẳng, mỗi dân tộc phải chủ động phát triển ngành công nghiệp văn hóa của mình, dựa trên tài năng sáng tạo, nguồn lực văn hóa, công nghệ và thị trường.

Nhưng ở Việt Nam thời điểm đó, thực thi Công ước là câu chuyện còn nhiều lúng túng. Dù làm nghiên cứu, cho đến trước năm 2012, tôi không thể nói rằng mình hiểu sâu về công nghiệp văn hóa. Thực tế là đến khi UNESCO phát động phong trào đánh giá 5 năm thực thi Công ước, chúng tôi mới thực sự đặt câu hỏi: Việt Nam đang ở đâu trong lộ trình thực thi Công ước? Có những ngành công nghiệp văn hóa nào? Chính sách của chúng ta ra sao? Thị trường phát triển đến mức nào?

Từ câu hỏi ấy, chúng tôi mời hai chuyên gia của UNESCO – Tom Fleming từ Anh, nơi công nghiệp sáng tạo đã trở thành chính sách quốc gia, và William Codjo từ Benin, quốc gia đang phát triển ở châu Phi – để cùng soi chiếu tình hình. Mục đích rất rõ ràng: phải có một chuyên gia đến từ cái nôi của công nghiệp sáng tạo, và một chuyên gia đến từ nước đang phát triển, để tìm phương pháp phù hợp với Việt Nam.

Kết luận của họ làm chúng tôi bất ngờ. Dù đã tham gia Công ước 2005 được 5 năm nhưng gần như chúng ta chưa làm được gì đáng kể. Về nhận thức, hầu như không ai nói về công nghiệp văn hóa, không ai biết rõ Việt Nam có bao nhiêu ngành công nghiệp văn hóa. Về chính sách, chúng ta không có chiến lược, không có luật, không có cơ chế hỗ trợ, không có quỹ đầu tư, không có hệ thống không gian sáng tạo. Còn về thị trường, chúng ta “có mà như không có”: có điện ảnh, có nghệ thuật biểu diễn, có thời trang, có thủ công mỹ nghệ…, nhưng hầu như không có mối liên kết giữa sáng tạo – sản xuất – phân phối – tiêu dùng. Chúng ta chưa đầu tư xứng tầm cho xây dựng thương hiệu, chưa phát triển khán giả của công nghiệp văn hóa trong nước, chưa coi công nghệ là một phần của văn hóa, chưa có mô hình kinh doanh văn hóa đúng nghĩa.

Chúng tôi nhận ra: muốn thay đổi thực trạng, phải có chiến lược cấp quốc gia. Văn hóa truyền thống của Việt Nam mạnh mẽ và phong phú, nhưng để phát triển thành công nghiệp văn hóa, cần một “cú hích” từ phía Nhà nước. Chính từ cách tiếp cận ấy, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030 ra đời – chiến lược đầu tiên trong lịch sử Việt Nam về lĩnh vực này. Đó là cột mốc quan trọng, đặt nền tảng nhận thức mới cho cả hệ thống chính trị, và mở đường để công nghiệp văn hóa tìm được vị trí xứng đáng trong đời sống quốc gia.

“Công nghiệp văn hóa” từ ngày đầu bỡ ngỡ đến chiến lược quốc gia - 2

Tour tham quan Văn Miếu - Quốc Tử Giám về đêm (Ảnh: Mạnh Quân).

Sau đó nhận thức về công nghiệp văn hóa dần lan rộng; các ngành được xác định rõ ràng với cơ cấu 12 lĩnh vực (quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình và phát thanh, du lịch văn hóa); những thuật ngữ như “công nghiệp văn hóa”, “công nghiệp sáng tạo”, “không gian sáng tạo”, “bản quyền trí tuệ” không còn xa lạ.

Những chuyển động đầu tiên của hệ sinh thái sáng tạo như các festival “Monsoon Music”, “Lễ hội Hò Zô”…; các không gian văn hóa, nghệ thuật như Heritage Space, Nhà Sàn Collective… dần hình thành.

Tuy nhiên, sự phát triển đó nếu không có khung pháp lý, không có chiến lược dài hạn, không có cơ chế đầu tư, thì sẽ rất dễ đứt gãy. Chúng tôi hiểu rất rõ: doanh nghiệp sáng tạo không thể chạy theo mô hình tự phát; tài năng sáng tạo không thể phát triển trong hệ thống quản lý lỏng lẻo; di sản không thể được bảo vệ nếu chỉ dùng mô hình truyền thống. Và đó chính là lý do Chiến lược 2486 trở nên vô cùng quan trọng.

Chiến lược mới khẳng định rõ: công nghiệp văn hóa là thành phần quan trọng của nền kinh tế quốc dân, gắn chặt với công nghệ, sáng tạo và bản quyền trí tuệ. Nó nhấn mạnh phát triển có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng môi trường pháp lý – thị trường – nhân lực – công nghệ toàn diện; thúc đẩy quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới; xem công nghiệp văn hóa như sức mạnh mềm của quốc gia.

Chiến lược 2486 đặt mục tiêu đến năm 2030, công nghiệp văn hóa đóng góp tối thiểu 7% GDP – một mục tiêu đầy thách thức nhưng mang tầm nhìn lớn.

Trong bối cảnh đó, Hà Nội nổi lên như địa phương tiên phong. Với căn cứ pháp lý từ Luật Thủ đô (sửa đổi), rồi Nghị quyết 09 của Thành ủy về phát triển công nghiệp văn hóa, các nghị quyết liên quan của HĐND thành phố, Hà Nội đã và đang chủ động thực hiện những điều mà Chiến lược 2486 đặt ra. Từ điện ảnh, thiết kế, nội dung số, thời trang, nghệ thuật biểu diễn đến du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ, các ngành đều đang phát triển mạnh mẽ. Festival Thăng Long – Hà Nội 2025 vừa diễn ra càng chứng minh năng lực tổ chức sự kiện quốc tế, kích hoạt không gian sáng tạo và lan tỏa bản sắc văn hóa của Thủ đô.

Nếu chiến lược đầu tiên đặt nền móng nhận thức, thì Chiến lược 2486 mở ra giai đoạn bứt phá: Nhà nước chuyển từ “làm thay” sang “tạo môi trường”, từ quản lý sang kiến tạo, từ bao cấp sang thúc đẩy thị trường sáng tạo. Và đó chính là bước ngoặt lớn nhất.

Trong thế giới ngày nay, cạnh tranh văn hóa diễn ra không kém phần quyết liệt so với cạnh tranh kinh tế. Những quốc gia không giữ được bản sắc sẽ bị hòa tan; những dân tộc không phát triển được công nghiệp văn hóa sẽ bị chi phối bởi ngoại lực. Điều này khiến thông điệp của Công ước 2005 mang ý nghĩa lớn hơn bao giờ hết: muốn bảo vệ chủ quyền văn hóa, phải phát triển công nghiệp văn hóa; muốn có sức đề kháng văn hóa, phải xây dựng ngành sáng tạo đủ mạnh; muốn khẳng định mình trên bản đồ văn hóa thế giới, phải có sản phẩm văn hóa đặc sắc, đủ sức cạnh tranh.

Và đây chính là tầm nhìn của Chiến lược 2486. Tương lai công nghiệp văn hóa Việt Nam không chỉ nằm ở con số GDP, mà ở chỗ chúng ta có thể kể câu chuyện của mình ra thế giới bằng những cách hiện đại và hấp dẫn hơn; có thể tạo ra những sản phẩm văn hóa làm giàu cho quốc gia; có thể bảo tồn di sản bằng công nghệ số; có thể biến sáng tạo thành nghề nghiệp; có thể làm cho văn hóa trở nên sống động, đi vào mọi ngóc ngách đời sống.

Công nghiệp văn hóa là sự hội tụ của tài năng sáng tạo, nguồn lực văn hóa, công nghệ, mô hình kinh doanh và thị trường. Tương lai của nó gắn liền với thế hệ trẻ: những người có thể tạo ra nội dung số, làm phim, làm nhạc, làm thời trang, làm thiết kế, làm nghệ thuật, làm game, làm sản phẩm văn hóa mà cả thế giới yêu thích.

Nếu chúng ta làm đúng, Việt Nam có thể trở thành một điểm sáng sáng tạo của châu Á, một quốc gia có bản sắc đậm đà nhưng hiện đại, một nền kinh tế văn hóa năng động, một nơi mà người trẻ có thể sống bằng sáng tạo, một đất nước có sức mạnh mềm và hấp dẫn mềm lan tỏa ra thế giới.

Tác giả: PGS.TS Bùi Hoài Sơn là thạc sĩ chuyên ngành quản lý di sản và nghệ thuật tại Đại học Bắc London (University of North London); tiến sĩ quản lý văn hóa tại Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!