(Dân trí) - "Nỗ lực của chúng ta trong phát triển công nghiệp văn hóa những năm vừa qua đã bắt đầu thu được những thành quả bước đầu vô cùng đáng tự hào", đại biểu Quốc hội Bùi Hoài Sơn chia sẻ.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn là Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương. Báo Dân trí có cuộc trò chuyện với ông về chủ đề “công nghiệp văn hóa” nhân có nhiều sự kiện lớn trong lĩnh vực này vừa diễn ra.
Video: Phạm Tiến - Khánh Vi

Cảm ơn ông đã dành thời gian tham gia cuộc trò chuyện với báo Dân trí trong một ngày mùa thu rất đẹp ở Hà Nội để nói về công nghiệp văn hóa, một chủ đề có lẽ với ông - một người gắn bó lâu năm ở lĩnh vực này - gợi lên rất nhiều suy ngẫm và cảm hứng?
- Vâng, đúng vậy. Hà Nội mùa thu bao giờ cũng mang một vẻ đẹp khiến lòng người nao nao khó tả, khơi dậy trong chúng ta những cảm xúc sâu lắng. Đặc biệt là khi dư âm của những ngày Quốc khánh vừa qua vẫn còn vương vấn, lan tỏa một niềm hân hoan rạo rực trong lòng mỗi người. Không khí lễ hội, với cờ hoa rợp trời, tiếng nhạc quân hành vang vọng và những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt mọi người, đã để lại những cảm xúc khó quên.
Bây giờ, khi mọi thứ dần lắng lại, ta vẫn cảm nhận được không khí náo nức ấy như ngọn lửa sưởi ấm và khích lệ chúng ta bước tiếp. Năm nay là một năm rất đặc biệt. Đất nước kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, rồi 80 năm ngày cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9. Trong tâm thức chúng ta, bao câu chuyện hào hùng, bao hy sinh thầm lặng của cha ông, nay được ôn lại qua những buổi lễ trang nghiêm, những bài ca da diết, khiến lòng người dâng trào xúc động. Tất cả hòa quyện và lan tỏa năng lượng tích cực.
Càng đặc biệt hơn, khi trong năm nay những quyết sách chiến lược của Đảng và Nhà nước được triển khai mạnh mẽ, từ đột phá phát triển về khoa học công nghệ, kinh tế tư nhân, hội nhập, pháp luật, giáo dục đào tạo, y tế… cho đến sắp xếp lại giang sơn, tinh gọn bộ máy nhà nước. Cá nhân tôi cảm nhận một nguồn năng lượng mới mẻ, tràn đầy hy vọng đang đến trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ông là một người gắn bó lâu năm với lĩnh vực văn hóa và hiện nay là đại biểu Quốc hội cũng chuyên trách về văn hóa, cá nhân tôi và có lẽ là nhiều bạn đọc của báo Dân trí rất tò mò về sở thích văn hóa của ông, như âm nhạc, phim ảnh, sách báo…?
-Tôi là một người mê đọc sách. Thói quen này có lẽ bắt nguồn từ truyền thống gia đình và nó trở thành một thói quen tốt cho mình. Và đúng là, khi đọc sách, tôi thấy rất nhiều điều trong đó. Tất nhiên là các đầu sách có sự thay đổi theo từng giai đoạn của cuộc đời. Khi còn nhỏ chưa có mục đích và định hướng chung, chưa có thị hiếu cụ thể, hơn nữa hồi đó cũng có rất ít sách, nên có được một cuốn sách đã là quý lắm rồi, cứ thế đọc ngấu nghiến. Nhờ việc đọc sách nên cũng chuẩn bị cho tôi một phông kiến thức tốt.

Đến độ tuổi lớn hơn và đặc biệt giai đoạn như hiện nay với công việc quá bận bịu, tôi chỉ đọc những vấn đề nào mình quan tâm mà thôi. Ví dụ gần đây tôi đọc mấy cuốn về công nghiệp văn hóa, về sáng tạo, về lập pháp… để có thêm kỹ năng. Tức là bây giờ đọc tập trung hơn.
Về âm nhạc, tôi nhớ khi tôi có dịp sang Trung Quốc, đến Học viện thanh thiếu niên của Bắc Kinh, thì tôi thấy một nghiên cứu cho thấy rằng, là tùy theo những cái độ tuổi khác nhau thì con người ta lại thích những loại hình nghệ thuật khác nhau. Ví dụ, những người 60-70 tuổi trở lên ở Trung Quốc vô cùng thích nhạc cách mạng; những người độ tuổi 40-50 thì thích nhạc Hồng Kông; còn những người từ 40 tuổi trở xuống thích nhạc Mỹ. Tôi thấy mình cũng không nằm ngoài xu hướng đã được thống kê, được khẳng định về mặt xã hội học đó. Tôi nằm trong số những người rất thích nhạc cách mạng và say mê nhạc cách mạng. Thế nên, cũng giống như rất nhiều người khác, khi hát karaoke cùng gia đình, bạn bè thì tôi cũng chỉ lựa chọn những bài hát thuộc thể loại đó, gắn với một thời tuổi trẻ và ăn sâu vào tiềm thức.
Thế nhưng tôi cũng biết rằng, mỗi người mỗi khác, mình không thể đưa nhu cầu thị hiếu của mình mà áp đặt cho người khác, yêu cầu người khác phải theo mình. Chúng ta biết rằng, nghệ thuật rất khó so sánh, cũng không nên lấy thị hiếu nghệ thuật để làm thước đo. Trong điện ảnh cũng vậy. Mấy hôm nay thì tôi đang xem mấy bộ phim về lịch sử, về chiến tranh Triều Tiên hay là chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bởi vì khi xem phim “Mưa đỏ” xong tôi muốn tìm hiểu xem các nước khác làm phim lịch sử như thế nào. Có những phim trước đây đã xem, nhưng khi xem lại thì cảm nhận khác.
Nói về sở thích thì mỗi người có một sở thích riêng của mình và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, từ cuộc đời, phông kiến thức, hay sự chi phối từ gia đình, công việc. Với logic đó, tôi thấy rằng bản thân chúng ta nên tôn trọng những sở thích đa dạng của mọi người và bởi, xã hội vốn dĩ đa dạng và phong phú như thế! Nghệ thuật cũng nên đa dạng và phong phú. Nếu chúng ta chỉ tôn vinh một loại hình nghệ thuật mà không tạo điều kiện cho các loại hình nghệ thuật khác phát triển thì cũng sẽ khiến cho xã hội đơn điệu và không phát triển được.

Thưa ông, lĩnh vực văn hóa của chúng ta vừa đón nhận một tin vui là ca sĩ Đức Phúc, đại diện Việt Nam, vừa xuất sắc giành ngôi vị quán quân Intervision 2025 - cuộc thi âm nhạc quốc tế uy tín tổ chức tại Nga. Thủ tướng Chính phủ đã gửi thư chúc mừng và nhấn mạnh rằng “thành tích này không chỉ là niềm vinh dự lớn lao cho cá nhân ca sĩ mà còn là niềm tự hào chung của nền âm nhạc đương đại và văn hóa Việt Nam”. Ông có nghĩ rằng Việt Nam đã và đang có một thế hệ nghệ sĩ tài năng, không chỉ thuyết phục được người hâm mộ trong nước mà còn có thể mạnh dạn “mang chuông đi đánh xứ người”, đưa văn hóa Việt Nam, âm nhạc Việt Nam ra thế giới?
- Khi nghe tin này tôi đã vô cùng phấn khích và tôi nghĩ rất nhiều người Việt Nam cũng cùng chung cảm xúc vui mừng như vậy. Đức Phúc đã giành được một giải thưởng rất danh giá. Còn nhớ hôm đó là ngày Chủ nhật, khi xem chương trình truyền hình của BBC, tôi đã không khỏi vỡ òa khi thấy thông tin “ca sĩ Việt Nam - Đức Phúc - đoạt giải quán quân Intervision 2025” được đưa lên dòng tin chính (headlines) một cách trang trọng.
Tôi nghĩ rằng, nỗ lực của chúng ta trong phát triển công nghiệp văn hóa những năm vừa qua đã bắt đầu thu được những thành quả bước đầu vô cùng đáng tự hào. Gần đây, Phương Mỹ Chi cũng đã đoạt giải và gây tiếng vang ở Trung Quốc. Và nay Đức Phúc thậm chí đã mang về giải thưởng cao hơn ở một giải đấu có tầm ảnh hưởng lớn hơn. Từ những ví dụ đó cho thấy, mong muốn đặt những bước chân đầu tiên, và đánh dấu thương hiệu Việt Nam trong dòng chảy nghệ thuật thế giới đã có những tín hiệu tích cực.
Chúng ta nhận ra một hướng đúng đắn trong phát triển công nghiệp văn hóa, không chỉ là bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa của dân tộc mà còn lan tỏa các giá trị đó ra thế giới, để từ đó, có thêm sự tự tin và niềm tự hào để tiếp tục tiến lên.
Trước kia, khi những nhóm nhạc, ca sĩ nước ngoài như Blackpink, BTS… đến biểu diễn khiến công chúng trong nước choáng ngợp. Giới trẻ đam mê với các loại hình âm nhạc, với các ca sĩ, ban nhạc nước ngoài, trong khi chúng ta có nhiều giá trị văn hóa dân tộc mà lại chưa có dịp tỏa sáng. Những giá trị văn hóa dân tộc đó hoàn toàn có thể kết tinh thành những sản phẩm nghệ thuật, có thể “đem chuông đi đánh xứ người” thành công, mà chiến thắng vừa qua của Đức Phúc là một minh chứng.

Trước đây chúng ta chỉ thấy giới trẻ Việt Nam hát theo, nhảy theo các điệu hát, ca từ của những ca sĩ, ban nhạc nổi tiếng nước ngoài mà thôi, thì nay một số người nổi tiếng nước ngoài đã bắt đầu nhảy theo, hát theo những điệu nhạc, những ca từ do người Việt sáng tạo. Ca sĩ Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế, đạt giải cao trong một cuộc thi có tầm vóc thế giới. Từ những tín hiệu đáng mừng đó, ông nhận thấy cơ hội, triển vọng nào cho công nghiệp văn hóa của Việt Nam trong thời gian tới?
- Điều anh nói giúp tôi nhớ lại, khi đại dịch Covid diễn ra, vũ điệu rửa tay cùng ca khúc “Ghen CoV” của nhóm ca sĩ Việt Nam đã trở nên nổi tiếng toàn cầu nhờ chương trình Last Week Tonight with John Oliver trên đài HBO. Vũ điệu cùng ca khúc này thời điểm ấy lan truyền rất mạnh mẽ, được báo chí quốc tế như Time và các trang âm nhạc như Billboard đưa tin, khen ngợi.
Sau này, “Si tình” của Hoàng Thùy Linh cũng tạo nên cơn sốt xu hướng với rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng cùng “bắt trend” trình diễn. Rồi chúng ta chứng kiến những trường hợp như Chi Pu, Phương Mỹ Chi, gần đây nhất là Đức Phúc bước ra thế giới… Những sự kiện đó không phải chỉ là hiện tượng nhất thời mà phản ánh xu hướng xuất khẩu văn hóa Việt Nam ra toàn thế giới.
Nếu chúng ta có những bước đi bài bản, được truyền cảm hứng từ những sự kiện nói trên và được hỗ trợ bởi những chính sách phù hợp của Đảng và Nhà nước trong thời gian sắp tới, thì tôi tin rằng, những sản phẩm văn hóa nghệ thuật của Việt Nam sẽ dần có một chỗ đứng vững chắc trong thị trường nghệ thuật thế giới.

Đó thực sự sẽ là sức mạnh mềm của chúng ta trong bối cảnh hiện nay. Ngày nay, cạnh tranh sức mạnh mềm trên thế giới có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ dừng ở câu chuyện truyền bá văn hóa mà còn ảnh hưởng đến kinh tế, đến sức mạnh tổng hợp của quốc gia nữa.
Công nghiệp văn hóa là một chủ đề rất rộng lớn, không chỉ có âm nhạc mà còn nhiều lĩnh vực khác. Mà ví dụ là gần đây, bộ phim “Mưa đỏ” đã tạo được hiệu ứng rất tốt, không chỉ thành công về mặt nghệ thuật mà còn thắng lợi về doanh thu. Ông có suy nghĩ như thế nào về hiện tượng phim “Mưa đỏ”?
- Hiện tượng “Mưa đỏ” chắc chắn sẽ còn được nhắc đến trong một thời gian khá dài nữa. Mặc dù khai thác về chủ đề lịch sử/chiến tranh vốn được cho là khá khô khan, kén khán giả, nhưng bộ phim đã rất thành công về mặt doanh thu, thậm chí là tạo ra kỷ lục phòng vé.
Từ trước tới nay chúng ta thường nghĩ rằng những bộ phim thương mại như của Trấn Thành, Lý Hải thì mới tiếp cận được với thị hiếu người trẻ, với đông đảo khán giả đại chúng. Tuy nhiên khi có được cách tiếp cận phù hợp thì thể loại phim thể loại lịch sử - chiến tranh cách mạng - chính kịch vẫn thu hút khán giả thành công, mang lại doanh thu bùng nổ. Đó chính là cách tiếp cận của công nghiệp văn hóa.
Tất nhiên, thành công của “Mưa đỏ” còn đến từ nhiều lý do khác nhau. Lý do đầu tiên và quan trọng là tâm trạng xã hội đang rất phù hợp để ủng hộ một bộ phim hay một sản phẩm nghệ thuật có chủ đề yêu nước, chủ đề tôn vinh những giá trị lịch sử của dân tộc. Những bộ phim thành công trong năm 2025 đều về chủ đề này, ví dụ ngay trước đó là phim “Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối” cũng gặt hái doanh thu thắng lợi.
Không chỉ trong điện ảnh, mà ở lĩnh vực âm nhạc, những ca khúc về chủ đề ca ngợi đất nước cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của khán giả. Nhiều bài hát có sức lan tỏa rất mạnh. Rồi các chương trình đại nhạc hội, nào V Fest – Thanh xuân rực rỡ, V Concert - Rạng rỡ Việt Nam, concert quốc gia “Tổ quốc trong tim” và nhiều chương trình lớn khác…, khi truyền tải được thông điệp yêu nước thì đều thành công.

Liên quan công nghiệp văn hóa còn nhiều nội dung khác. Thứ nhất là câu chuyện về tài năng và sự sáng tạo. Các tác phẩm nghệ thuật lan tỏa mạnh mẽ thời gian gần đây vừa đưa được thông điệp quan trọng vào tác phẩm, vừa phù hợp với thị hiếu khán giả. Ví dụ như Nguyễn Văn Chung với “Viết tiếp câu chuyện hòa bình” hay là Nhóm DTAP với album “Made in Vietnam”.
Yếu tố quan trọng nữa là công nghệ. Rõ ràng, chúng ta thấy có sự thay đổi rất mạnh mẽ trong việc sử dụng công nghệ, giúp các sản phẩm nghệ thuật tỏa sáng. Trong “Mưa đỏ” sử dụng rất nhiều kỹ xảo điện ảnh, các công nghệ mới giúp sản phẩm trở nên chân thực, gần gũi hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ - nhóm khách hàng chính của thị trường nghệ thuật. Hay như việc tổ chức concert. Nếu các buổi trình diễn này tổ chức ở trong phòng chắc chắn sẽ không có được hiệu ứng và thành công như vừa qua. Phải ra sân vận động với hệ thống công nghệ âm thanh, ánh sáng… cùng sức chứa lớn, lan tỏa không khí, “đốt cháy” năng lượng từ khán giả.
Một yếu tố vô cùng quan trọng nữa bên cạnh con người, công nghệ là kỹ năng kinh doanh. Một sản phẩm muốn thành công chắc chắn là phải cần có độ lan tỏa, cần có những kỹ năng để phát triển khán giả, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu… Có thể thấy rõ điều này qua việc để một bộ phim tiếp cận được với đông đảo khán giả, đoàn làm phim phải làm việc với các rạp phim, giao lưu khán giả, xuất hiện trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, lan tỏa thông điệp… Tương tự, thông tin về các đại nhạc hội cũng tràn ngập trên các nền tảng, tạo hiệu ứng truyền thông giúp sự kiện thu hút khán giả.
Như vậy, nỗ lực phát triển công nghiệp văn hóa trong suốt nhiều năm qua, không chỉ dừng ở chính sách, chiến lược, nghị quyết mà đã bắt đầu ăn sâu vào cuộc sống, biến thành hành động của các nghệ sĩ, của nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau.
Tất cả mang lại một niềm tin rằng, nền công nghiệp văn hóa của chúng ta sẽ phát triển và sẽ đạt được những thành tựu như các quốc gia phát triển đi trước, rồi chúng ta sẽ có những bộ phim không kém Trung Quốc, Hàn Quốc, những phim hoạt hình sánh ngang Nhật Bản… Hiện tại, chúng ta đang dần tiệm cận được với trình độ quốc tế, và nếu quyết tâm, có những chính sách động viên thì công nghiệp văn hóa của Việt Nam sẽ phát triển đột phá, góp phần xứng đáng vào sự phát triển đất nước trong những năm sắp tới.
Theo ông, với dòng phim về đề tài lịch sử, chiến tranh cách mạng, làm sao để vừa đảm bảo chuẩn mực và giá trị nghệ thuật, vừa đảm bảo tự do sáng tạo và thành công trên thị trường?
- Từ những bộ phim gần đây như “Mưa đỏ” hay “Địa đạo”, nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ có được những bài học quý báu để lan tỏa rộng rãi. Theo quan sát của tôi thì những tác phẩm điện ảnh nhận được sự quan tâm lớn trên thế giới, những tác phẩm đoạt giải Oscar, Cây Cọ Vàng… đều là những bộ phim trăn trở về thân phận con người. Trong bối cảnh xu hướng nghệ thuật ngày nay, việc khai thác những trăn trở về thân phận con người, đề cập đến những vấn đề cụ thể, chắc chắc sẽ là hướng đi cần được đào sâu hơn nữa.

Những chi tiết trong một bộ phim, chẳng hạn như lời thoại, cảnh phim hợp gu với bối cảnh xã hội ngày nay đem đến hiệu ứng tích cực cho cả một bộ phim. Có khi người xem chỉ thích thú, tập trung vào một chi tiết cụ thể nào đó, và chính chi tiết này tạo ra sức lan tỏa cho bộ phim. Ví dụ trong phim “Mưa đỏ”, các nhà làm phim đã phần nào “làm mới” nhân vật phản diện. Trước đây trong hình dung, người bên kia chiến tuyến đều đáng ghét. Thế nhưng nay, hình ảnh của nhân vật phản diện được xây dựng không chỉ đẹp trai, võ giỏi mà còn có đời sống tình cảm riêng… Cách tiếp cận này nhân văn. Hay như tình cảm giữa cô chèo đò với anh bộ đội, có một chi tiết rất nhạy cảm khi anh bộ đội bị thương, nhưng được khai thác mang lại sự mới mẻ cho bộ phim. Tôi thấy rằng, cách kể chuyện của ngày hôm nay đã khác so với cách kể chuyện của ngày xưa. Bộ phim đang kể chuyện cho khán giả ngày hôm nay và phải phù hợp với bối cảnh và thị hiếu hôm nay.
Tiếp theo nữa, như tôi luôn luôn nhấn mạnh rằng, với bất kỳ một loại hình nghệ thuật nào thì tài năng là yếu tố quan trọng nhất. Đó không chỉ là tài năng của người nghệ sĩ mà còn của các bên liên quan, của biên đạo, của biên tập, của đạo diện, và của các diễn viên tham gia vào bộ phim đó; những người làm hậu trường, những người kinh doanh, xây dựng thương hiệu, phát triển khán giả. Tức là phải hình thành nên một hệ sinh thái đầy đủ, toàn diện, phù hợp với sự phát triển của sản phẩm, của nền công nghiệp văn hóa.
Với những tín hiệu mà ông vừa phân tích, liệu đã đến lúc chúng ta có thể lạc quan về công nghiệp văn hóa của Việt Nam chưa?
- Tôi nghĩ bây giờ là thời điểm mà chúng ta có thể lạc quan được. Khi xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa từ năm 2014, thì lúc đó chúng tôi cũng chưa có được sự tự tin như ngày hôm nay. Lúc bấy giờ, khái niệm “công nghiệp văn hóa” còn khá mới, thậm chí nhiều người còn phê bình về khái niệm đó.
Tuy vậy, sau đó đã có hàng loạt chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, như Nghị quyết 33 với nhiệm vụ thứ 5 là nhiệm vụ về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đi đôi với hoàn thiện thị trường văn hóa. Rồi sau đó là Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; các tỉnh, thành phố cũng có chiến lược này. Bây giờ “công nghiệp văn hóa” đã trở thành một xu hướng.
Thời gian vừa qua, khi sửa đổi luật, là cơ quan Quốc hội, chúng tôi đều lấy tiêu chí “hướng theo công nghiệp văn hóa” là một trong những tiêu chí quan trọng. Chúng tôi mong muốn tạo thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp văn hóa ở cả những Luật về thuế, về đất đai, hợp tác công – tư, quản lý sử dụng tài sản công… Còn dĩ nhiên là các luật như là Luật về điện ảnh thì chúng ta đã sửa theo hướng là luật về công nghiệp điện ảnh.
Nếu xét về mặt định lượng thì công nghiệp văn hóa có thể đóng góp như thế nào cho GDP, trong việc tạo ra những việc làm sáng tạo, không chỉ đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước mà còn là xuất khẩu văn hóa nữa, thưa ông?

-Chủ nhật vừa rồi khi xem kênh BBC, tôi thấy có một thông tin rất truyền cảm hứng, là ở Anh, lĩnh vực thời trang có doanh thu là 60 tỷ Bảng, tức là chỉ riêng thời trang thôi chứ không phải là công nghiệp dệt may, mà họ đã có mức doanh thu lớn như vậy. Tôi tự hỏi, tại sao chúng ta là một trong những nước có nền dệt may xếp nhất, nhì thế giới nhưng lại không có được những lợi thế từ công nghiệp thời trang như thế? Lưu ý, thời trang cũng là 1 trong 12 ngành thuộc công nghiệp văn hóa.
Để công nghiệp văn hóa phát triển mạnh mẽ hơn, nghĩa là phải có đóng góp nhiều hơn, tích cực hơn trong GDP. Theo con số thống kê đến năm 2020, đóng góp của công nghiệp văn hóa vào GDP là 3,61% và chúng ta mong muốn là đến năm 2030 thì mức đóng góp là 7%. Tôi tin rằng, với tốc độ phát triển như hiện nay cũng như với quyết tâm và việc được tạo điều kiện, thì mốc này là khả thi.
Chúng ta cũng có lợi thế về nguồn lực văn hóa, với 54 dân tộc anh em, với 34 tỉnh thành mà mỗi tỉnh thành là một nét văn hóa riêng về ẩm thực, lễ hội, phong tục tập quán. Những giá trị văn hóa được kết tinh qua bề dày nghìn năm lịch sử. Đó cũng là lý do khiến Việt Nam trở thành điểm đến vô cùng hấp dẫn đối với khách du lịch quốc tế; có rất nhiều giải thưởng về du lịch, nhiều địa danh được bình chọn của thế giới. Tiềm năng đó vô cùng to lớn để chúng ta tạo ra những sản phẩm công nghiệp văn hóa, như đã thấy ở sản phẩm “Bắc Bling” của Hòa Minzy…
Bên cạnh thuận lợi, triển vọng như ông vừa phân tích thì đâu là những rào cản, nút thắt cần tháo gỡ?
- Tôi rất thích câu hỏi này. Việc ngợi ca, tự hào về những điều đã làm được là quan trọng, điều đó mang lại sự tự tin để chúng ta bước tiếp, nhưng chúng ta vẫn phải cảnh giác. Phải nhìn lại những thiếu sót, những khuyết điểm thì chúng ta mới tiến lên được, chứ nếu chỉ nhìn vào những hào nhoáng mà tưởng rằng đã thành công thì rất dễ rơi vào tự hào, ngợi ca thái quá, dẫn đến hành động sai lệch.
Việc đánh giá lại các điểm nghẽn, những vấn đề khó khăn cũng rất quan trọng để từ đó khắc phục và bước tiếp tốt hơn. Có mấy điều mà tôi thấy rất quan trọng:
Đầu tiên là nhận thức của chúng ta về “công nghiệp văn hóa”. Mặc dù tôi thấy có sự chuyển biến rất mạnh mẽ trong thời gian vừa qua nhưng không phải ở đâu, với ai, lúc nào chúng ta cũng có được nhận thức đúng đắn, đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của công nghiệp văn hóa, về cách thức để khai thác công nghiệp văn hóa cho sự phát triển của kinh tế xã hội và của văn hóa đất nước. Khi không có được một nhận thức như thế thì chúng ta sẽ không biết cách đầu tư hoặc là không mạnh dạn, không tự tin hoặc là làm sai khi phát triển công nghiệp văn hóa hướng đến thị trường.
Như tôi đã nói ngay từ đầu, rằng công nghiệp văn hóa không hoàn toàn chỉ đơn thuần là kinh tế, vì có những sản phẩm văn hóa cần hướng đến nhiều mục đích lớn, vượt lên kinh tế. Nếu xây một bảo tàng, một thư viện chỉ nhằm bán vé, thu phí để bù đắp lại vốn đầu tư thì không bao giờ đạt được mục đích như xây chung cư, xây siêu thị được! Chính vì thế, rất cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về điều này.

Thứ hai là chính sách, luật pháp cần phải hoàn thiện hơn. Thời gian qua, chúng tôi đã rất nỗ lực trong việc xây dựng hệ thống các chính sách luật pháp về công nghiệp văn hóa như đã nói ở trên, song vẫn còn những khập khiễng nhất định. Ví dụ khi thảo luận về thuế giá trị gia tăng, một kiến nghị của rất nhiều doanh nghiệp văn hóa và đặc biệt là các doanh nghiệp điện ảnh, là mong muốn giảm thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động điện ảnh từ 10% xuống 5% như trước đây. Nếu không có một nền điện ảnh Việt Nam mạnh thì chúng ta chỉ đi xem phim Mỹ, phim Hàn Quốc, phim Trung Quốc và chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài, thích các sự kiện của nước ngoài, thích hàng hóa nước ngoài, thời trang, mỹ phẩm nước ngoài.
Do đó, chúng ta cần bảo vệ nền điện ảnh của Việt Nam. Đồng ý rằng có một số bộ phim trong nước gần đây đạt doanh thu cao, nhưng bên cạnh đó có rất nhiều bộ phim khác không được thuận lợi như vậy. Trong điện ảnh có nhiều dòng phim khác nhau, có những dòng phim độc lập, dòng phim thử nghiệm của các bạn trẻ… Sự đa dạng đó giúp điện ảnh phát triển trong tương lai. Trước những khó khăn của họ, chúng ta cần thiết kế những ưu đãi về thuế để từ đó, huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sản xuất điện ảnh. Khi chúng ta tạo ra được hiệu ứng “trăm hoa đua nở” thì chúng ta sẽ có thêm nhiều bộ phim của người Việt Nam, cho người Việt Nam, truyền tải những bài học lịch sử, những giá trị nhân văn… Sự kích thích về thuế có ý nghĩa rất lớn. Thế nhưng cuối cùng, đề xuất đó không được chấp thuận.
Ở góc độ nguồn lực, chúng ta vẫn cần nhiều thêm những tên tuổi nghệ sĩ và tài năng nghệ thuật lớn, cần những đạo diễn, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên có thương hiệu quốc tế để dẫn dắt các ngành nghệ thuật. Ví dụ như trong điện ảnh, chúng ta cần có những vị đạo diễn có tầm cỡ, đoạt những giải thưởng lớn của quốc tế mà điện ảnh Hàn Quốc, Trung Quốc đã làm được. Chúng ta cũng cần nhiều hơn những Đức Phúc trong thời gian tới; cần nhiều hơn những người đảm nhiệm các công việc khác nhau để tạo ra một ekip, một hệ sinh thái trong công nghiệp văn hóa, chứ không chỉ là nghệ sĩ.
Về cơ sở hạ tầng, cần phải có thêm những trung tâm biểu diễn lớn để tổ chức sự kiện, tạo ra một thị trường rộng lớn hơn, và từ đó thu hút nguồn lực đầu tư – đây là một vòng xoáy tác động, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển.

Rất nhiều việc cần làm. Vậy theo ông, đâu là vấn đề cần ưu tiên trong thời gian tới? Ví dụ, chúng ta thấy một loạt chương trình concert đã thành công, vậy thì Việt Nam có nên xây dựng một thương hiệu về âm nhạc không?
- Không phải đến bây giờ chúng ta mới có những sự kiện âm nhạc lớn. Trước đây chúng ta cũng đã có một số sự kiện âm nhạc tầm cỡ. Vấn đề là làm sao chăm sóc cho các sự kiện này lớn hơn, thu hút được sự quan tâm của thế giới. Ví dụ như Hà Nội có sự kiện Âm nhạc Quốc tế Gió mùa - Monsoon Music Festival của nhạc sĩ Quốc Trung được tổ chức nhiều năm rồi, và tôi biết anh Quốc Trung cũng rất kỳ vọng đây sẽ là một lễ hội âm nhạc quốc tế lớn để chúng ta xây dựng thương hiệu âm nhạc cho Việt Nam. Tại TPHCM cũng có thương hiệu lễ hội âm nhạc quốc tế Hozo quy mô lớn, thu hút rất nhiều nghệ sĩ hàng đầu tham gia.
Chúng ta cũng có rất nhiều giải thưởng âm nhạc. Tất nhiên là những giải thưởng âm nhạc đó mới dừng ở phạm vi quốc gia như Sao Mai, Vietnam Got Talent… Tôi cho rằng, việc tổ chức các sự kiện này cần phải được nâng tầm hơn nữa, trở thành các sự kiện quốc tế, lúc đó chúng ta mới có được sự quan tâm của các nghệ sĩ lớn trên thế giới đến tham gia. Qua đó giúp nghệ sĩ của chúng ta có cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, có thêm được kỹ năng để đi ra thế giới.

Điều trăn trở trong 40 năm đổi mới vừa qua của nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam, đó là chúng ta chưa có được sản phẩm nghệ thuật xứng tầm thời đại Hồ Chí Minh. Với quyết tâm xây dựng ngành công nghiệp văn hóa và những kết quả đạt được trong thời gian vừa qua, việc chúng ta hướng đến tổ chức các sự kiện âm nhạc lớn cũng là một cách để lấy đà, tạo nên một sự kiện xứng tầm, và trên cơ sở đó chúng ta có được các sản phẩm nghệ thuật lớn được công nhận. Chẳng hạn, nhờ có Liên hoan phim quốc tế Busan của Hàn Quốc thì mới có phim “Ký sinh trùng”, mới có những sản phẩm điện ảnh của Hàn Quốc thu hút sự quan tâm của cả thế giới.
Còn chúng ta thì sao? Nếu như Liên hoan phim quốc tế Hà Nội, Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ hơn thì cũng hoàn toàn có thể hy vọng về một “Ký sinh trùng” phiên bản Việt Nam, tức là một bộ phim Việt Nam đoạt giải Oscar.
Chúng ta cần phải có những chính sách phù hợp hơn, đặc biệt, phải nghĩ nhiều hơn đến việc xây dựng một luật về Công nghiệp văn hóa. Nếu thiếu một hành lang pháp lý quan trọng như thế thì sẽ khó cho lĩnh vực này, bởi phát triển đến một giai đoạn nào đó sẽ có những điểm nghẽn nhất định.
Gần đây tôi được biết ngành Văn hóa có đề cập đến việc đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, có thể sẽ ban hành một Nghị quyết về văn hóa. Ông nghĩ thế nào về chủ trương này?
Vừa rồi tôi được tham gia tư vấn cho việc xây dựng Nghị quyết về chấn hưng và phát triển văn hóa. Tôi nghĩ, đây là một nghị quyết vô cùng quan trọng.
Khi bước vào một giai đoạn mới, văn hóa sẽ cần rất nhiều thay đổi. Ví dụ, sau khi “sắp xếp lại giang sơn” thì lĩnh vực văn hóa cũng phải sắp xếp lại. Thực tế vừa qua còn tồn tại sự chồng chéo trong việc phân cấp, phân quyền quản lý văn hóa. Ví dụ, có quá nhiều cuộc thi hoa hậu, hoặc là có rất nhiều những vấn đề không biết ai quản lý, quản lý như thế nào, rất nhiều sự kiện được tổ chức vừa thừa vừa thiếu. Đối với những vấn đề này, chúng ta sẽ cần phải xác định rõ ai sẽ là người chịu trách nhiệm.

Trong xu thế ngày nay, kinh tế sáng tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với phát triển văn hóa và quốc gia nào để lỡ chuyến tàu kinh tế sáng tạo này, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa thì quốc gia đó sẽ chịu rất nhiều bất lợi. Câu chuyện là trong thời gian sắp tới, chúng ta thay đổi như thế nào, chúng ta tận dụng gì từ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; tận dụng gì từ kinh tế tư nhân trong hỗ trợ cho phát triển công nghiệp văn hóa nói riêng và văn hóa nói chung; hay là chúng ta tận dụng gì từ việc hội nhập quốc tế bằng cách tiến ra thế giới để khẳng định chính mình?
Những câu chuyện đó cần được thể hiện ở trong Nghị quyết về chấn hưng và phát triển văn hóa. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, nghị quyết khi ban hành sẽ có tác động tích cực với thực tiễn cuộc sống. Nền văn hóa thực sự là nền tảng cho sự phát triển đất nước, là hệ điều tiết và nguồn lực nội sinh của quốc gia.
Trân trọng cảm ơn ông. Cảm ơn Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – VietinBank đã đồng hành cùng Báo Dân Trí!
