Tâm điểm
Bùi Hoài Sơn

Hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững

Trong những ngày này, khi không khí góp ý cho Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Dự thảo) lan tỏa khắp cả nước, từ các hội nghị chuyên gia cho đến từng diễn đàn mở dành cho nhân dân, chúng ta cảm nhận sâu sắc một tinh thần rất Việt Nam: tinh thần trách nhiệm, niềm kỳ vọng và khát vọng đồng hành cùng Đảng để kiến tạo tương lai dân tộc. Những ý kiến lắng sâu, những chia sẻ chân thành, những góp ý đầy tâm huyết tạo nên dòng chảy mạnh mẽ của niềm tin và ý chí.

Trong bối cảnh thế giới biến động sâu sắc, chiến tranh công nghệ, cạnh tranh chiến lược và khủng hoảng giá trị diễn ra trên quy mô toàn cầu, Việt Nam đứng trước những lựa chọn mang tính lịch sử. Dự thảo không chỉ tổng kết một nhiệm kỳ, cũng không chỉ đặt ra nhiệm vụ cho 5 năm tới, mà còn định hình tầm nhìn cho cả dân tộc đến giữa thế kỷ XXI. Ở đó, tư tưởng lớn mở đường cho phát triển, tầm nhìn chiến lược dẫn dắt hành động, và khát vọng vươn lên trở thành quốc gia phồn vinh, hạnh phúc được thể hiện xuyên suốt. Điều đặc biệt quan trọng là, trong tổng thể định hướng chiến lược đó, văn hóa – con người được đặt ở vị trí trung tâm, trở thành nền tảng, động lực và hệ điều tiết cho phát triển bền vững.

Hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững - 1

Chương trình "Tự hào là người Việt Nam" tổ chức tại Sân vận động Mỹ Đình ngày 17/8 (Ảnh: Nguyễn Hà Nam).

Không phải ngẫu nhiên, cũng không phải một mệnh đề mang tính hình thức, khi Dự thảo xác định: “Văn hoá, con người là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn, hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững.” Đây là bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta. Từ chỗ xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đến chỗ coi văn hóa là động lực của phát triển, và nay là hệ điều tiết của mô hình tăng trưởng mới. Một quốc gia có thể giàu có nhờ tài nguyên, nhờ công nghệ, nhờ vốn đầu tư, nhưng chỉ có thể bền vững, có bản lĩnh và có vị thế khi dựa trên sức mạnh nội sinh của văn hóa và con người. Văn hóa không phải là phần phụ của phát triển; văn hóa chính là chất liệu tạo nên bản sắc, linh hồn tạo nên sức mạnh, động lực tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia.

Tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Văn hóa, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; văn hóa là sức mạnh mềm, là “năng lượng gốc” vô tận của dân tộc Việt Nam”. Thông điệp ấy không chỉ là định hướng; đó là lời hiệu triệu, gợi nhắc chúng ta về căn cốt của dân tộc. Trong suốt chiều dài lịch sử, từ những ngày đầu dựng nước, qua những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, cho đến hành trình kiến thiết đất nước hôm nay, văn hóa luôn là sức mạnh mềm nhưng bền bỉ nhất, xây dựng nên phẩm chất Việt Nam: yêu nước, nhân nghĩa, hiếu học, kiên cường, đoàn kết, sáng tạo, thích ứng linh hoạt với mọi biến động. Những phẩm chất ấy không tự nhiên có, mà được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành “mã gen tinh thần” của dân tộc Việt Nam.

Trong thời đại toàn cầu hóa, sức mạnh của một quốc gia không chỉ nằm ở GDP hay công nghệ, mà còn nằm ở khả năng lan tỏa giá trị, kể câu chuyện của mình với thế giới, khiến thế giới yêu mến, tôn trọng và muốn hợp tác. Khi một dân tộc có bản sắc mạnh, có năng lực sáng tạo, biết giữ cái riêng và hấp thụ cái hay của nhân loại, thì họ không chỉ hội nhập; họ dẫn dắt giá trị. Văn hóa là tấm hộ chiếu mềm của quốc gia, là lực lượng tiên phong trên mặt trận ngoại giao công chúng, là cách Việt Nam bước ra thế giới một cách tự tin, đường hoàng và đầy khí phách.

Từ thực tiễn gần 40 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ, những lúc đất nước đối mặt thách thức, chính văn hóa là chỗ dựa tinh thần lớn nhất. Khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, chúng ta không chỉ chiến thắng bằng biện pháp y tế, mà bằng tinh thần đoàn kết, sẻ chia, tương thân tương ái – đó chính là văn hóa. Khi nền kinh tế gặp khó khăn, doanh nghiệp Việt Nam không gục ngã, mà đổi mới sáng tạo mạnh mẽ – đó cũng là văn hóa. Khi mô hình tăng trưởng truyền thống dần tới hạn, chúng ta dựng xây mô hình mới dựa vào đổi mới sáng tạo, công nghệ và con người – đó chính là sức mạnh nội sinh của văn hóa.

Những đại đô thị sáng tạo đang hình thành, từ Hà Nội – thành phố sáng tạo của UNESCO, đến những trung tâm văn hóa – sáng tạo mới ở TPHCM, Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng…; các dự án văn hóa lớn như Trung tâm Triển lãm Quốc gia; những chương trình âm nhạc lớn (S – Music, V Concert), các công trình bảo tồn di sản, sự bùng nổ của ngành công nghiệp biểu diễn, điện ảnh, âm nhạc, game, thiết kế… đã cho thấy văn hóa đang từng ngày chuyển hóa thành sức mạnh kinh tế. Không chỉ là giá trị tinh thần, văn hóa đã trở thành nguồn lực thực chất, đóng góp vào GDP, tạo việc làm chất lượng cao, thúc đẩy du lịch, nâng cao thương hiệu quốc gia và khẳng định hình ảnh Việt Nam trẻ trung, sáng tạo, tự tin hội nhập.

Hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững - 2

Khán giả tham dự một đại nhạc hội (Ảnh: Nhà sản xuất, Nguyễn Hà Nam).

Trong bối cảnh mới, việc coi văn hóa như “lĩnh vực mềm” hay “sau kinh tế” là quan niệm lỗi thời. Thế giới đang chứng kiến sự dịch chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức, tài năng sáng tạo, bản sắc văn hóa và công nghệ thông tin. Điều đó đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống thể chế văn hóa, phát triển hạ tầng văn hóa số, nâng cao năng lực quản trị văn hóa, đầu tư cho nguồn nhân lực văn hóa chất lượng cao, thúc đẩy xã hội hóa và hợp tác công – tư trong lĩnh vực văn hóa. Văn hóa không thể phát triển nếu chỉ dựa vào nguồn lực công; nó cần được coi là lĩnh vực đầu tư chiến lược, thu hút mọi nguồn lực xã hội cho sáng tạo và bảo tồn giá trị.

Đảng ta luôn nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây không chỉ là lời hiệu triệu mà còn là tiêu chí cho mọi chính sách văn hóa: tiên tiến để hội nhập, hiện đại; đậm đà bản sắc để không mất mình. Một nền văn hóa mất bản sắc là nền văn hóa mất sức đề kháng. Một dân tộc không tự tin vào giá trị của mình thì không thể bước đi vững vàng trong toàn cầu hóa. Đó là lý do vì sao Dự thảo nhấn mạnh nhiệm vụ giữ gìn, phát huy bản sắc, xây dựng con người Việt Nam thời đại mới – những con người có tri thức, có bản lĩnh, có đạo đức, có năng lực hội nhập, có tinh thần trách nhiệm cộng đồng và khát vọng vươn lên.

Văn hóa là hệ điều tiết không chỉ vì nó định hình chuẩn mực xã hội, mà vì nó điều chỉnh hành vi, tạo nên môi trường minh bạch, nhân văn, khuyến khích sáng tạo, bảo vệ cái đúng – đẹp – chân – thiện, và lên án những biểu hiện suy thoái, lệch chuẩn. Một mô hình tăng trưởng bền vững phải lấy văn hóa làm “bộ lọc giá trị”, phải để văn hóa dẫn dắt công nghệ, kinh tế, quản trị và xã hội. Văn hóa chính là la bàn giúp chúng ta tiến nhanh nhưng không lạc hướng, hội nhập mà không hòa tan, đổi mới mà vẫn giữ được cốt cách Việt Nam.

Văn hóa không thể đứng bên lề của tiến trình hiện đại hóa. Văn hóa phải đi trước một bước, đồng hành trong mọi chính sách kinh tế – xã hội – công nghệ. Đầu tư cho văn hóa không chỉ là đầu tư cho nghệ thuật, mà là đầu tư cho năng lực sáng tạo quốc gia, cho nguồn lực con người, cho sức mạnh mềm, cho nền tảng xã hội bền vững. Thúc đẩy hợp tác văn hoá quốc tế chính là con đường để Việt Nam lan tỏa giá trị Việt Nam, và cũng là cách để Việt Nam học hỏi tinh hoa nhân loại, tiếp nhận dòng chảy văn minh mới, từ đó làm giàu cho bản sắc dân tộc và nâng tầm vị thế đất nước.

Khi chúng ta đặt văn hóa và con người vào vị trí cao nhất, chúng ta đang chọn con đường phát triển đúng đắn nhất. Bởi sự giàu có vật chất có thể phai nhạt, nhưng bản sắc văn hóa, phẩm giá con người, lòng yêu nước, khát vọng vươn lên – đó là những giá trị bền vững làm nên tầm vóc một quốc gia.

Từ khát vọng chung của dân tộc, từ tinh thần đổi mới của thời đại, chúng ta có niềm tin rằng Việt Nam sẽ bước vào kỷ nguyên phát triển mới với tâm thế của một dân tộc tự tin, bản lĩnh và sáng tạo. Chúng ta tin vào sức mạnh của giá trị Việt Nam – sức mạnh của nhân nghĩa, trí tuệ, đoàn kết và khát vọng vươn lên. Chúng ta tin rằng văn hóa sẽ là dòng chảy xuyên suốt, kết nối truyền thống với hiện đại, quá khứ với tương lai, con người với đất nước, Việt Nam với thế giới.

Và chúng ta tin rằng, với sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần dân chủ, với trí tuệ và tình yêu nước của mỗi người dân, văn hóa Việt Nam sẽ thực sự trở thành động lực nội sinh, hệ điều tiết và sức mạnh mềm đưa Việt Nam vươn tới những đỉnh cao mới, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

Tác giả: PGS.TS Bùi Hoài Sơn là thạc sĩ chuyên ngành quản lý di sản và nghệ thuật tại Đại học Bắc London (University of North London); tiến sĩ quản lý văn hóa tại Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!