Mưa lũ lịch sử ở miền Trung
  1. Dòng sự kiện:
  2. Mưa lũ lịch sử ở miền Trung
  3. Sạt lở ở Lâm Đồng

Hiệu quả cắt lũ của đập, hồ chứa nước “chưa đạt kỳ vọng”

Thế Kha

(Dân trí) - Cục trưởng Nguyễn Tùng Phong thừa nhận hiệu quả cắt lũ của đập, hồ chứa nước nhìn tổng thể vẫn chưa đạt kỳ vọng, nhất là với những hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết.

GS.TS Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhận định như vậy tại diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” do cơ quan này phối hợp với báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chiều 21/11.

Hiệu quả cắt lũ của đập, hồ chứa nước “chưa đạt kỳ vọng” - 1

Cục trưởng Nguyễn Tùng Phong thông tin tại diễn đàn chiều 21/11 (Ảnh: Tùng Đinh).

Ông Phong nhấn mạnh bối cảnh thời tiết năm nay “dị thường và cực đoan” với chuỗi cơn bão số 5, 9, 10, 11 di chuyển rất nhanh, quỹ đạo khác hẳn quy luật nhiều năm. Mưa lớn, mưa cực đoan lặp đi lặp lại, nhiều nơi ghi nhận giá trị “lịch sử”, vượt lịch sử. Ngay cả Đồng bằng sông Cửu Long cũng xuất hiện hiện tượng thủy triều bất thường.

Trong bối cảnh đó, theo ông, câu chuyện quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa nước đứng trước yêu cầu hoàn toàn mới.

Gắn mã định danh cho công trình hồ đập

Mặc dù hệ thống hồ chứa thủy lợi trong 2 năm qua cơ bản tuân thủ quy trình vận hành, nhiều hồ như Cấm Sơn, Núi Cốc, Tả Trạch phát huy tốt vai trò cắt giảm lũ, có hồ giảm tới hàng chục % lưu lượng xả so với lưu lượng nước về hồ, góp phần quan trọng bảo vệ hạ du nhưng ông Phong thừa nhận hiệu quả cắt lũ nhìn tổng thể “vẫn chưa đạt kỳ vọng”.

Cụ thể là với những hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết, hoặc những hồ chứa chưa chủ động hạ mực nước đón lũ do thiếu tự tin về dự báo.

Cục trưởng Nguyễn Tùng Phong thẳng thắn cho rằng nhiều quy trình vận hành hồ đơn và liên hồ hiện nay được xây dựng trên chuỗi số liệu lịch sử cũ, chưa phản ánh các giá trị cực trị mới trong 2-3 năm gần đây khi mưa có thể đã gấp 4-6 lần trung bình tháng và lũ vượt xa các kỷ lục ghi nhận trước đó.

Điều này đòi hỏi phải xem xét lại cách xác định tần suất, xác suất thiết kế, cả trong quy hoạch, thiết kế công trình lẫn trong xây dựng, điều chỉnh quy trình vận hành.

Hơn nữa, quy trình hiện hành còn nặng tính “ổn định”, trong khi thực tế số liệu mưa, lũ biến động rất nhanh, yêu cầu cách tiếp cận vận hành linh hoạt hơn, nhưng vẫn phải ưu tiên an toàn hạ du theo đúng chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Hiệu quả cắt lũ của đập, hồ chứa nước “chưa đạt kỳ vọng” - 2

Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ lịch sử hôm 19/11 (Ảnh: Trung Thi).

Từ thực tế đó, GS.TS Nguyễn Tùng Phong nêu định hướng chuyển mạnh sang tiếp cận “quản lý rủi ro và quản trị rủi ro”, quản lý thống nhất theo lưu vực và liên lưu vực sông, thay vì chỉ nhìn từng hồ hay từng ngành.

“Nhiệm vụ của hồ chứa phải được xác định rõ là đa mục tiêu: cắt giảm lũ và đảm bảo an toàn công trình, bảo vệ hạ du, cấp nước cho dân sinh, sản xuất. Từ đó, cần nghiên cứu nâng dung tích phòng lũ ở nhiều hồ bằng cách xem xét sử dụng linh hoạt khoảng chênh giữa mực nước dâng bình thường và mực nước lũ thiết kế, thay vì chỉ giữ an toàn theo cách cũ”, ông Phong nêu quan điểm.

Đến nay Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã gắn mã định danh cho một nửa trong số hơn 86.000 công trình và đang phối hợp để hoàn thiện chuẩn cơ sở dữ liệu ngành, trước hết với các hồ chứa nước.

Tới đây, cơ quan này tiếp tục xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, với định dạng thống nhất để các địa phương cùng cập nhật; xây dựng phần mềm hỗ trợ ra quyết định dùng chung cho quản lý, vận hành hồ chứa.

Song song với đó, yêu cầu nâng cao năng lực dự báo - cảnh báo, kết nối và khai thác hiệu quả dữ liệu từ các hệ thống, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ dự báo, các mô hình mưa - dòng chảy, thủy lực được ông Phong nêu ra tại diễn đàn. Mục tiêu nhằm từng bước chuyển từ dự báo sang “thông báo đủ tin cậy” để đơn vị vận hành hồ đập có thể mạnh dạn hạ mực nước đón lũ, tận dụng tối đa dung tích phòng lũ nhưng vẫn an toàn.

Bài học từ vận hành hồ Cửa Đạt 

Ông Lê Bá Huân, Trưởng Phòng Quản lý thi công, phụ trách chi nhánh Cửa Đạt (Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng thủy lợi 3, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nêu thực tiễn vận hành hồ Cửa Đạt trong nhiều trận lũ lớn cho thấy bài học quan trọng nhất là phải chủ động, kỷ luật và dựa trên khoa học.

Trong đó, dự báo thủy văn và nguồn nước luôn là “chìa khóa” quyết định khả năng cắt lũ an toàn. Thời gian dự báo tối ưu phải kéo dài khoảng 5 ngày, tính từ khi có tin bão hoặc áp thấp nhiệt đới, với đầy đủ thông tin.

Hiệu quả cắt lũ của đập, hồ chứa nước “chưa đạt kỳ vọng” - 3

Ông Lê Bá Huân thông tin tại diễn đàn (Ảnh: Tùng Đinh).

Ông Huân nói những năm trước chưa có công nghệ, cán bộ phải trực đo thủ công trong mưa gió, trèo đèo lội suối tới các trạm thủy văn trong nhiều tháng, vừa vất vả, vừa nguy hiểm. 

Gần đây, hồ Cửa Đạt đã thay đổi căn bản cách thức quản lý. Hệ thống quan trắc mực nước và lượng mưa tự động được lắp đặt; phần mềm dự báo và hỗ trợ điều tiết lũ do Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam phát triển được đưa vào sử dụng. Trong khi dự báo khí tượng được cập nhật liên tục từ các mô hình toàn cầu như ECMWF, GFS, ICON thông qua nền tảng Windy. Nhờ đó, công tác dự báo đạt độ tin cậy cao hơn, giúp điều hành hồ chủ động và hiệu quả hơn trong từng tình huống.

Trên cơ sở dự báo tin cậy, hồ Cửa Đạt đã chủ động xả đón lũ trong nhiều đợt bão lớn. Với bão số 3, theo ông Huân, hồ cắt được 530 triệu m3, giảm 3.546m3/s  lúc đỉnh lũ. Trong bão số 5, việc xả trước khi bão tới đã tạo thêm 192 triệu m3 dung tích cắt lũ; khi bão đổ bộ, hồ tiếp tục cắt 219 triệu m3, giảm hơn 3.000m3/s đỉnh lũ.

Tương tự, trước bão số 10, hồ đã chủ động hạ gần 4,3m mực nước, tạo thêm 116 triệu m3 dung tích chứa. Khi bão đến, hồ cắt tiếp 145 triệu m3, giảm gần 4.000m3/s khi đỉnh lũ.

Hiệu quả cắt lũ của đập, hồ chứa nước “chưa đạt kỳ vọng” - 4

Hồ Cửa Đạt, huyện Thường Xuân (cũ), tỉnh Thanh Hóa xả lũ (Ảnh: Thanh Tùng).

Quá trình vận hành, đơn vị quản lý trao đổi liên tục với các đơn vị quản lý công trình trên lưu vực sông Chu, cơ quan khí tượng thủy văn, chính quyền địa phương và lực lượng phòng chống thiên tai để cập nhật mực nước, lưu lượng lũ, tình hình ngập hạ du và thủy triều.

“Việc cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí cũng giúp người dân chủ động ứng phó, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản”, ông Huân cho hay.