Tâm điểm
Hà Đức Trí

Khoảng trống bảo hiểm sau bão lũ

Sau cuộc trao đổi công việc, anh bạn đồng  nghiệp cùng tập đoàn đang ở văn phòng nước ngoài hỏi tôi về tình hình  thiệt hại của Việt Nam sau một số cơn bão gần đây. Tôi trả lời nhanh theo số liệu thống kê đã biết trước đó từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường về bão Bualoi (bão số 10): 66 người chết và mất tích, tổng thiệt hại kinh tế gần 16.000 tỷ đồng.

“Bồi thường bảo hiểm sẽ hỗ trợ đáng kể chứ?”, anh hỏi tiếp. “Thường không vượt quá 10%”, tôi đáp. “Ồ, vậy thì thấp quá”, anh thốt lên.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của thiên tai do các đặc thù địa lý. Sau mỗi cơn bão lớn, chính quyền các cấp, doanh nghiệp và người dân lại chật vật khắc phục hậu quả, phục hồi đời sống và sản xuất. Hệ thống bảo hiểm quốc gia, gồm cả đơn vị có vốn nước ngoài và bảo hiểm tư nhân, không đứng ngoài cuộc. Tuy nhiên, đóng góp của ngành bảo hiểm từ tiền trả bồi thường vẫn còn hạn chế.

Khoảng trống bảo hiểm sau bão lũ - 1

Làng mạc bị ngập lụt do bão Bualoi tại Nghệ An (Ảnh: Nguyễn Phê).

Thực tế cho thấy, qua nhiều cơn bão lớn trước đây, số tiền bồi thường bảo hiểm sau các cơn bão luôn ở con số thấp so với tổng thiệt hại kinh tế. Năm 2009, bão Ketsana gây thiệt hại khoảng 16.000 tỷ đồng, bảo hiểm chi trả hơn 600 tỷ đồng. Năm 2013, bão Wutip đổ bộ vào miền Trung, gây thiệt hại 11.000 tỷ đồng, bảo hiểm chi trả hơn 450 tỷ đồng. Năm 2017, bão Damrey đã gây thiệt hại 22.000 tỷ đồng trong khi tiền bồi thường từ bảo hiểm chỉ ở mức hơn 700 tỷ đồng.

Riêng với siêu bão Yagi (bão số 3 trong năm 2024), cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào đất liền Việt Nam trong 70 năm qua, gây ra tổng thiệt hại kinh tế hơn 80.000 tỷ đồng.  Số tiền ước tính phải chi trả bồi thường từ ngành bảo hiểm hơn 11.000 tỷ đồng cho cả thiệt hại về người và tài sản. Còn với bão Bualoi, tính đến ngày 10/10, tổng số tiền yêu cầu bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ, sức khỏe ước tính 1.674 tỷ đồng.

Tỷ trọng bồi thường thấp chủ yếu do bảo hiểm vẫn chưa được phủ rộng một cách toàn diện lên tất cả các ngành nghề và mọi đối tượng trong cộng đồng. Các hộ gia đình và cá nhân, phần lớn vẫn nằm ngoài vòng bảo vệ tài chính do không tham gia hoặc không đủ điều kiện tham gia các loại hình bảo hiểm. Hậu quả, đa số họ trở nên trắng tay sau các cơn bão lũ.

So với các ngành khác, ngành nông nghiệp và thủy hải sản thường chịu tổn thất nặng nề nhất. Sau cơn bão Yagi, theo ước tính của cơ quan quản lý, tổng thiệt hại của ngành này hơn 50.000 tỷ đồng, chiếm hơn 60% tổng thiệt hại kinh tế chung. Tuy nhiên, số tiền bồi thường bảo hiểm chiếm tỷ trọng không đáng kể do tỷ lệ tham gia bảo hiểm còn quá thấp.

Trên thực tế, Chính phủ từng ban hành các chính sách cụ thể nhằm khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nông nghiệp. Đáng chú ý nhất là Nghị định số 58 năm 2018 của Chính phủ và Quyết định số 13 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ, quy định cụ thể mức hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp cho giai đoạn từ 24/5/2022 đến 31/12 năm nay. Theo đó, các hộ nghèo và cận nghèo được hỗ trợ tối đa 90% phí bảo hiểm; cá nhân không thuộc diện nghèo được hỗ trợ tối đa 20% phí bảo hiểm; và các tổ chức sản xuất nông nghiệp được hỗ trợ 20% phí bảo hiểm nếu đáp ứng các điều kiện liên kết sản xuất và chứng nhận chất lượng sản phẩm.

Tuy nhiên, kết quả không thật sự khả quan như mong đợi dù các chính sách ưu đãi rất rõ ràng. Nhận thức của người dân về lợi ích của bảo hiểm nông nghiệp vẫn còn hạn chế. Quy trình kê khai, đăng ký và thủ tục thẩm định hồ sơ yêu cầu bồi thường phức tạp, khiến họ cảm thấy bất tiện và thiếu tin tưởng. Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng không mặn mà trong việc khai thác hợp đồng mới do phí bảo hiểm thấp, tỷ lệ tổn thất lại cao, khó kiểm soát, dẫn đến việc kinh doanh không hiệu quả và không bảo đảm an toàn tài chính.

Tại các quốc gia trong khu vực châu Á, ngành bảo hiểm đóng vai trò trung tâm trong phục hồi sau thảm họa. Ở Nhật Bản, sau thảm họa kép với trận động đất và sóng thần lịch sử năm 2011, các công ty bảo hiểm đã chi trả hơn 1.200 tỷ yên (tương đương khoảng 15 tỷ USD), với sự hỗ trợ tái bảo hiểm từ chính phủ. Philippines, một trong những quốc gia chịu thiên tai nặng nề nhất thế giới, đã và đang triển khai các chương trình bảo hiểm vi mô giúp người dân nhận được hỗ trợ tài chính sau thiên tai.

Từ hậu quả của siêu bão Haiyan năm 2013, Chính phủ Philippines đã hợp tác với Ngân hàng Thế Giới (Worldbank), Ngân Hàng Phát Triển châu Á (ADB) triển khai chương trình bảo hiểm chỉ số rủi ro thiên tai (Parametric Insurance) cho chính quyền trung ương và địa phương.

Cơ chế hoạt động của Parametric Insurance dựa trên các chỉ số kích hoạt như tốc độ gió hoặc cường độ động đất vượt ngưỡng nhất định thì hợp đồng tự động chi trả, không cần chờ đánh giá thiệt hại cụ thể. Nhờ vậy, các khoản tiền bồi thường được giải ngân nhanh chóng sau thảm họa, giúp chính quyền có nguồn lực kịp thời để xây dựng lại cơ sở hạ tầng, hỗ trợ người dân và khởi động hoạt động tái thiết. Trong giai đoạn 2020-2023, các địa phương trải qua thiên tai đã nhận được các khoản chi trả lên đến hàng triệu USD. Mô hình Parametric Insurance được xem là điển hình thành công ở khu vực Đông Nam Á, thể hiện rõ vai trò tích cực của bảo hiểm trong khắc phục và tái thiết sau thiên tai.

Việt Nam cũng cần nghiên cứu và triển khai các mô hình bảo hiểm như vậy để mang lại lợi ích cho cộng đồng, giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ tài chính của chính phủ.

Ngoài ra, để ngành bảo hiểm thực sự phát huy vai trò thiết yếu trong chia sẻ rủi ro và giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước khi xảy ra các sự cố thiên tai, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba bên: Nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm và người dân.

Nhà nước tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, đẩy mạnh truyền thông để nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của bảo hiểm trong phòng ngừa rủi ro. Các doanh nghiệp bảo hiểm tích cực thiết kế sản phẩm phù hợp với đặc thù của từng vùng, kết hợp công nghệ để cải tiến quy trình giám định và đơn giản hóa thủ tục chi trả bồi thường. Về phía người dân, cần thay đổi tư duy từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, xem bảo hiểm như một công cụ thiết yếu để bảo vệ sinh mạng và tài sản của mình.

Trung bình mỗi năm Việt Nam hứng chịu hơn 10 cơn bão, trong đó có một số cơn bão lớn. Khi hàng ngàn ngôi nhà cùng ruộng lúa, hoa màu, thủy hải sản… bị tàn phá trên diện rộng thì không thể xem bão lũ chỉ là hiện tượng thời tiết đơn thuần hay biến cố bất thường nữa. Nó thật sự đã trở thành một phần của đời sống, qua đi rồi trở lại, ngày càng khốc liệt và khó lường hơn. Bảo hiểm dù không thể ngăn chặn được bão lũ nhưng là một trong những giải pháp hỗ trợ người dân trong tình thế phải chấp nhận đời sống có thiên tai.

Phát huy hiệu quả bản chất nhân văn và chia sẻ rủi ro trong mọi thảm họa, ngành bảo hiểm sẽ có được niềm tin rộng rãi từ người dân và trở thành lá chắn tài chính vững chắc cho cộng đồng.

Tác giả: Ông Hà Đức Trí hiện là một trong những Giám đốc Phụ trách Kinh doanh của Willis Towers Watson Việt Nam (WTW) thuộc Tập đoàn Môi giới Bảo hiểm đa quốc gia có trụ sở tại Mỹ. Ông từng được bầu chọn là thanh niên tiêu biểu của TPHCM.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!