Tâm điểm
Đặng Thị Thúy Diễm

Chọn ngày đẹp sinh con và an toàn y khoa

Tôi đã trải qua hai lần sinh nở và may mắn đều sinh thường. Lần đầu, tôi tăng cân khá nhiều vì chưa có kinh nghiệm kiểm soát chế độ ăn uống. Gia đình lo lắng nhưng vẫn động viên tôi đi lại, tập luyện nhẹ và thăm khám đúng hẹn theo hướng dẫn của bác sĩ để có thể sinh thường an toàn.

Tôi vẫn nhớ rõ ngày vỡ ối, cơn chuyển dạ khiến tôi “đau như trời giáng” và liên tục xin bác sĩ mổ vì không thể chịu nổi cơn đau. Nhờ sự động viên và hỗ trợ kịp thời của đội ngũ y bác sĩ và gia đình, tôi đã vượt cạn thành công. Sau đó, tôi mới thực sự thấm thía câu nói “một lần sinh là một lần tử” mà mẹ tôi hay nhắc, nhưng cũng cảm nhận rõ lợi ích của việc sinh thường đó là hồi phục nhanh, ít biến chứng và con khỏe mạnh.

Chọn ngày đẹp sinh con và an toàn y khoa - 1

Một ca phẫu thuật lấy thai (Ảnh: Mạnh Quân).

Mới đây, một bé sơ sinh hai ngày tuổi tử vong tại Bệnh viện Nhi Trung ương sau khi được mổ lấy thai ở tuần 37, chỉ vì gia đình muốn chọn “ngày giờ đẹp” để bé chào đời. Trẻ sinh ra trong tình trạng suy hô hấp nặng, tím tái, dù được hồi sức bằng kỹ thuật cao nhất nhưng không qua khỏi. Đây không phải là trường hợp cá biệt. Không ít sản phụ lựa chọn mổ chủ động khi chưa có chuyển dạ, chỉ để tránh “ngày xấu” hoặc chọn giờ sinh hợp phong thủy.

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận khách quan rằng không phải mọi ca mổ chủ động đều xuất phát từ yếu tố tín ngưỡng. Một số gia đình lựa chọn thời điểm sinh vì lý do cá nhân, tâm lý, hoặc để đảm bảo sự hiện diện của bác sĩ họ tin tưởng. Sự đan xen giữa yếu tố y khoa, văn hóa và tâm lý khiến vấn đề trở nên phức tạp hơn là chỉ gán cho “niềm tin tín ngưỡng”.

Việc chọn “giờ đẹp” để sinh con khá phổ biến ở nhiều quốc gia châu Á, nơi phong thủy, tử vi và tín ngưỡng cá nhân có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con người. Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này. Theo Bộ Y tế, tỷ lệ sinh mổ hiện gần 37%, có nơi lên tới 50–60%, cao hơn nhiều so với khuyến cáo 10–15% của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Dù tỷ lệ cao một phần do xu hướng chọn ngày sinh, nhưng còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác phải kể đến đó là phụ nữ mang thai ở độ tuổi lớn hơn, tỷ lệ béo phì tăng, các bệnh lý thai kỳ, hoặc nhu cầu giảm lo âu trước sinh. Nếu không phân tách rõ nguyên nhân, dễ dẫn đến ngộ nhận rằng phần lớn sinh mổ chủ động đều do phong thủy.

Theo y khoa, sinh mổ chỉ nên thực hiện khi sinh thường tiềm ẩn nguy hiểm, như thai quá lớn, ngôi thai bất thường, song thai một buồng ối hoặc đa thai, suy thai, dị tật thai, mẹ mắc bệnh lý nặng hoặc khung chậu bất thường. Mổ khi thai chưa đủ trưởng thành phổi hoặc trì hoãn vì kiêng ngày sẽ làm tăng nguy cơ suy hô hấp, viêm phổi, tổn thương não do thiếu oxy, thậm chí tử vong sơ sinh.

Không chỉ ảnh hưởng ngắn hạn, sinh mổ không cần thiết còn để lại hệ quả lâu dài như tăng nguy cơ nứt vết mổ trong lần mang thai sau, nguy cơ nhau cài răng lược, dính ruột, và chi phí y tế cao hơn. Đối với hệ thống y tế, gia tăng mổ chủ động đồng nghĩa với áp lực lớn hơn lên dịch vụ hồi sức sơ sinh, nhu cầu giường bệnh, nhân lực và ngân sách bảo hiểm y tế.

Ở Việt Nam, lựa chọn giới tính thai nhi đã bị cấm từ năm 2003 theo Pháp lệnh Dân số, với chế tài xử phạt tại Nghị định 114/2006/NĐ-CP và được Luật Bình đẳng giới năm 2006 xác định là hành vi vi phạm pháp luật. Mục tiêu là ngăn chặn mất cân bằng giới tính, bảo đảm công bằng xã hội và xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ.

So với lựa chọn giới tính, việc chọn ngày giờ sinh khác về bản chất. Lựa chọn giới tính gây tác động lâu dài đến cấu trúc dân số, còn chọn giờ sinh chủ yếu ảnh hưởng tới an toàn sản khoa và sức khỏe mẹ và bé trong ngắn hạn. Vì vậy, cơ chế quản lý không thể áp dụng cùng một khuôn khổ pháp lý cứng nhắc. Tuy nhiên, điểm chung giữa hai hiện tượng là quyết định y tế bị chi phối bởi yếu tố ngoài y khoa, dẫn tới nguy cơ sức khỏe cộng đồng, và đều cần có biện pháp quản lý để giảm thiểu rủi ro.

Thay vì cấm tuyệt đối, chính sách nên tập trung vào định hướng hành vi và quản lý chuyên môn. Hồ sơ y tế của các ca mổ chủ động cần ghi rõ lý do, kèm xác nhận của bác sĩ chuyên khoa, đồng thời quy định tuổi thai tối thiểu, chẳng hạn từ 39 tuần, để hạn chế rủi ro cho trẻ. Bệnh viện cần tăng cường tư vấn trước sinh, giải thích lợi ích của sinh thường và rủi ro mổ sớm để gia đình hiểu rõ trước khi quyết định. Các hội nghề nghiệp như Hội Sản phụ khoa có thể phối hợp xây dựng hướng dẫn thống nhất, vừa đảm bảo an toàn, vừa tôn trọng quyền tự chủ sinh sản. Về tài chính, bảo hiểm y tế chỉ nên chi trả đầy đủ cho các ca mổ có chỉ định y khoa rõ ràng, nhằm tránh tình trạng mổ “theo yêu cầu” không cần thiết.

Chọn hoặc tránh một ngày sinh thường xuất phát từ mong muốn tốt đẹp của gia đình. Tuy nhiên, khi quyết định y tế bị chi phối quá mức bởi yếu tố niềm tin, nguy cơ cho mẹ và bé sẽ tăng lên. Quyền tự quyết của sản phụ là quan trọng, nhưng cần đặt trong giới hạn an toàn y khoa. Cân bằng giữa quyền lựa chọn và trách nhiệm bảo vệ sức khỏe là hướng đi hợp lý. Khi mọi quyết định sinh nở được đưa ra trên nền tảng hiểu biết y khoa và tôn trọng giá trị văn hóa cá nhân, “ngày sinh” sẽ thực sự là thời khắc hạnh phúc đón chào một sinh linh khỏe mạnh, thay vì trở thành câu chuyện đáng tiếc như trường hợp kể trên.

Tác giả: Bà Đặng Thị Thúy Diễm tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Phân tích chính sách thuộc ngành Chính sách công tại trường Đại học Fulbright Việt Nam, đồng thời sở hữu bằng Thạc sĩ Xã hội học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM. Hiện bà là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng. Với nền tảng học thuật liên ngành và mối quan tâm sâu sắc đến các vấn đề xã hội, bà Diễm tập trung nghiên cứu các chính sách phát triển bền vững, an sinh xã hội và nâng cao chất lượng sống cho cộng đồng địa phương.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!