Thay đổi tư duy từ “chống” sang “sống cùng” với lũ
(Dân trí) - “Những đợt mưa lớn gây ngập lụt trên diện rộng vừa qua tiếp tục đặt ra nhiều câu hỏi lớn cho công tác phòng, tránh thiên tai và quản lý đô thị ở Việt Nam”, Tiến sĩ Tô Văn Trường bày tỏ.
LỜI TÒA SOẠN
Những cơn mưa dồn dập kéo dài, những trận lũ cuộn xiết vượt mốc lịch sử, những bản làng chìm trong biển nước, những tuyến đường đứt gãy, những mái nhà trôi theo dòng lũ… đang trở thành hình ảnh quen thuộc đến cay đắng trong mùa bão lũ năm nay.
Từ miền núi phía Bắc, Tây Nguyên đến dải duyên hải miền Trung và Nam Trung Bộ, thiên tai không còn là những sự cố đơn lẻ, mà đang hiện hữu như một trạng thái cực đoan mới, dữ dội hơn, bất thường hơn và ngày càng khó lường.
Miền Trung, dải đất mỏng manh giữa núi và biển, thêm một lần oằn mình trước thiên tai dữ dội chưa từng có tiền lệ.
Nhưng lũ hôm nay không chỉ là câu chuyện của tự nhiên, mà còn là lời cảnh báo về cách con người tổ chức không gian sống, phát triển và quản trị rủi ro. Khi thiên tai không còn là “bất thường”, câu hỏi đặt ra không chỉ là chống lũ, mà là làm thế nào để sống cùng lũ một cách an toàn, bền vững và nhân văn hơn.
Tuyến bài này là hành trình nhìn thẳng vào sự thật, lắng nghe tiếng nói người dân và tìm kiếm lời giải cho một miền Trung kiên cường trước thử thách.
Tiến sĩ Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, nhấn mạnh lượng mưa cực đoan, bão và áp thấp nhiệt đới xuất hiện với tần suất cao hơn dưới tác động của biến đổi khí hậu là điều không còn tranh cãi. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại của nhiều địa phương không chỉ đến từ thiên tai thuần túy, mà còn chịu tác động đáng kể từ những yếu tố do chính con người tạo ra: phá rừng, san lấp ao hồ, bê tông hóa quá mức, vận hành hồ chứa thiếu linh hoạt và hệ thống thoát nước lạc hậu...
“Làm sao xác định mức độ “đóng góp” của thiên tai và “nhân tai” trong từng trận ngập lụt?”, ông Trường cho rằng đây là câu hỏi cần lời giải đáp.

Khu vực Chùa Cầu (Hội An) ngập hết tầng 1, ước tính cao gần 2m sáng 30/10. Nước sông Thu Bồn, thành phố Đà Nẵng đo được tại Câu Lâu và Hội An đã cao hơn mức lũ lịch sử năm Giáp Thìn 1964 (Ảnh: Hoài Sơn).
"Không thể ra lệnh cho tự nhiên, nhưng có thể học cách sống hài hòa với nó”
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, vị chuyên gia về biến đổi khí hậu nhận định ngập lụt chỉ trở thành thảm họa khi yếu tố tự nhiên gặp đúng điểm yếu của hệ thống quản trị. Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Singapore đều từng đối mặt với áp lực ngập nặng, nhưng bằng kỷ luật trong quy hoạch, tư duy tôn trọng tự nhiên đã giúp giảm thiểu đáng kể rủi ro do thiên tai gây ra.
“Ngập lụt trở thành thảm họa là do hệ thống hạ tầng yếu và quản trị phân tán. So sánh với thành phố Tokyo (Nhật Bản) hay Seoul (Hàn Quốc), nơi có lượng mưa tương đương nhưng tổn thất hạn chế cho thấy mức độ thiệt hại phụ thuộc nhiều vào khả năng chống chịu do con người tạo ra”, ông Trường nói.
Vì thế cần chuyển từ tư duy “trị thủy” sang tư duy “sống chung với nước”, bảo vệ nghiêm rừng tự nhiên, không để mất thêm diện tích rừng giàu; phục hồi hệ sinh thái rừng theo đúng quy luật tự nhiên, không chỉ trồng keo hoặc bạch đàn mang tính chất kinh tế, Tiến sĩ Tô Văn Trường.
Đi liền với đó, cơ quan quản lý phải rà soát toàn diện hệ thống thoát nước và nâng cấp theo chuẩn mới. Mỗi đô thị phải có bản đồ ngập rõ ràng, cập nhật theo thời gian thực. Việc nâng cấp phải đồng bộ, tránh tình trạng tuyến này làm, tuyến kia chưa làm, khiến nước dồn về một điểm.
Hiện đại hóa dự báo khí tượng, thủy văn và vận hành hồ chứa cũng được vị chuyên gia đặc biệt quan tâm.

Ô tô BMW, Mercedes và Subaru ngập trong biển nước hồi cuối tháng 9 vừa qua ở Hà Nội (Ảnh: Sơn Nguyễn).
“Ngập lụt chỉ có thể giảm nếu dự báo tốt. Các mô hình thời tiết số, radar mưa dữ liệu vệ tinh và hệ thống phân tích theo thời gian thực cần được đầu tư mạnh. Ngành khí tượng thủy văn cần được quan tâm trong điều hành phòng chống thiên tai, còn vận hành hồ chứa cũng phải chuyển sang vận hành theo kịch bản dự báo linh hoạt”, Tiến sĩ Trường nói.
Nhận diện đúng phần “nhân tai” là bước quan trọng để giảm thiệt hại. Thiên tai không chờ con người đổi thay. Điều cần thay đổi, trước hết là tư duy phát triển, từ đối phó sang chủ động, từ “chống” sang “sống cùng”, từ ứng phó cục bộ sang quản trị tổng thể.
“Chúng ta không thể ra lệnh cho tự nhiên, nhưng có thể học cách sống hài hòa với nó, tôn trọng quy luật của nó và dựa vào khoa học để giảm rủi ro. Khi đó, mỗi trận mưa, mỗi cơn bão sẽ không còn là thảm họa, mà là phép thử cho năng lực điều hành và bản lĩnh thích ứng của một quốc gia đang hướng tới phát triển bền vững”, ông Trường phân tích.
Quản lý hệ thống hồ chứa, thủy điện đang bộc lộ nhiều bất cập
Theo ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cả nước hiện có 7.315 đập, hồ chứa thủy lợi; tổng dung tích trữ khoảng 15 tỷ m3. Các hồ này tạo nguồn nước tưới cho gần 1,1 triệu ha đất nông nghiệp và cấp 1,5 tỷ m3 nước cho sinh hoạt, công nghiệp cũng như ngành kinh tế khác.
Ông An thừa nhận công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới khi biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gia tăng mưa lũ cực đoan, trái quy luật đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản.
Đáng lo ngại hơn khi tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp. Hiện chỉ có khoảng 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và 19% lắp thiết bị quan trắc. “Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ”, ông An chia sẻ.

Ông Phan Tiến An (Ảnh: Tùng Đinh).
Theo ông An, cơ sở dữ liệu hồ chứa được xây dựng cách đây gần 10 năm (năm 2016) nhưng mới chỉ khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ. Hầu hết các địa phương vẫn quản lý thủ công, tài liệu rời rạc, dữ liệu không được cập nhật hoặc liên thông.
Sự phối hợp vận hành liên hồ vẫn gây lo ngại khi hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực. Trong khi khả năng tiêu thoát nước, chống ngập của nhiều vùng hạ du đang vượt ngưỡng chịu đựng.
Yêu cầu đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa đang trở nên hết sức cấp thiết, theo ông An.
Để khắc phục những bất cập nêu trên, ông An cho rằng, trước hết phải hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Song song với đó cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành.
Còn Tiến sĩ Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), cho rằng, bối cảnh vận hành ngày càng phức tạp nhưng mới chỉ có khoảng 200 hồ có cửa van chủ động. Mưa lũ cực đoan giai đoạn 2024-2025 đã đặt ra sức ép lớn, buộc ngành thủy lợi phải cải thiện năng lực dự báo, giám sát và điều hành.
Chất lượng dự báo lũ trên các hồ, đập vẫn phụ thuộc lớn vào dữ liệu mưa và kinh nghiệm của chuyên gia, khiến sai số về đỉnh lũ và thời gian lũ còn xảy ra ở một số trận cụ thể.
Ông Mạnh đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành thủy lợi theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn hóa định danh công trình và quy trình chia sẻ dữ liệu từ trung ương đến địa phương.
Ngành thủy lợi cần kết nối và chia sẻ dữ liệu đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia, mạng lưới đo mưa tự động và các nền tảng thời tiết. Việc này giúp đảm bảo hạn chế sai số khi tính toán.

Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ lịch sử hôm 19/11 gây ra nhiều tranh cãi trong dư luận (Ảnh: Trung Thi).
Nhìn nhận ở góc độ khác, PGS.TS Hoàng Thái Đại (Hội Thủy lợi Việt Nam) nhấn mạnh dù thiết bị hay phần mềm tiên tiến đến đâu thì vai trò của quản lý nhà nước vẫn là yếu tố quyết định. Nhà nước phải đứng ra điều phối, thống nhất quản lý tài nguyên nước và hệ thống hồ đập từ Trung ương đến địa phương; ban hành các quy chuẩn, quy trình, định mức kinh tế - kỹ thuật.
Nhắc lại bài học về những xung đột trong vận hành giữa thủy điện và thủy lợi trước đây khi hai ngành hoạt động tách rời, mỗi bên một mục tiêu, ông Đại nói Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thống nhất quản lý tài nguyên nước và công trình thủy lợi, nên cần phối hợp chặt chẽ hơn với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng để xử lý các vấn đề liên ngành. Chỉ khi có cơ quan điều phối thống nhất, kết hợp với dữ liệu đầy đủ và hạ tầng quan trắc đồng bộ thì các chính sách vận hành liên hồ mới đi vào thực chất.
Đồng quan điểm, song Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi Nguyễn Tùng Phong cho rằng phải quản lý thống nhất theo lưu vực và liên lưu vực sông, thay vì chỉ nhìn từng hồ hay từng ngành.
Tổng dung tích của hơn 7.300 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m3 trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, theo ông Phong, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn lịch sử.
Các giải pháp nâng cao năng lực dự báo - cảnh báo, kết nối và khai thác hiệu quả dữ liệu từ các hệ thống, phần mềm cung cấp dịch vụ dự báo, các mô hình mưa - dòng chảy và thủy lực cần được đầu tư hơn nữa. Mục tiêu là từng bước chuyển từ “dự báo” sang “thông báo đủ tin cậy” để đơn vị vận hành có thể mạnh dạn hạ mực nước hồ đón lũ, tận dụng tối đa dung tích phòng lũ nhưng vẫn an toàn.
Để đạt được mục tiêu trên, ông Phong cho rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng ứng dụng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại sẽ là nền tảng để bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khí hậu ngày càng cực đoan.
Dự báo lũ quét, sạt lở đất đối mặt nhiều khó khăn, thách thức
Hệ thống hỗ trợ cảnh báo lũ quét, sạt lở đất tại Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia (Cục Khí tượng Thủy văn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) được dựa trên công nghệ cảnh báo của Hoa Kỳ do Tổ chức Khí tượng thế giới chuyển giao để thực hiện dự báo cho Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.
Hiện tất cả đều được tích hợp trên hệ thống thông tin cảnh báo lũ quét, sạt lở đất thời gian thực (https://luquetsatlo.nchmf.gov.vn/) với mức độ chi tiết đến cấp xã.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Xuân Hiển, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, nhận định công tác dự báo - cảnh báo lũ quét và sạt lở đất vẫn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức.
“Cảnh báo lũ quét thường trên diện rộng theo lượng mưa tích lũy và ước lượng dự báo mưa và lượng mưa nhưng thực tế lũ quét, sạt lở đất chỉ xảy ra tại một con suối, một khu vực, một đoạn đường... Có thời điểm chúng tôi cảnh báo lũ quét, sạt lở tới hơn 1.000 xã nhưng thực tế rất ít xã xảy ra lũ quét, sạt lở. Lũ quét, sạt lở đất hiện nay chỉ cảnh báo, chưa dự báo được”, ông Hiển chia sẻ.
Trong khi đó, mạng lưới quan trắc ở nhiều khu vực vùng núi chưa đồng đều. Nhiều khu vực xung yếu nằm xa trạm đo mưa tín hiệu truyền dẫn đôi khi bị ảnh hưởng bởi địa hình, khiến dữ liệu không liên tục hoặc thiếu độ chi tiết cần thiết.

Thiệt hại do thiên tai gây ra từ năm 2010 đến năm nay, tính tới ngày 24/11 (Nguồn: Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai).
Tác động của biến đổi khí hậu khiến mưa cực đoan xuất hiện dày và khó dự đoán hơn. Những trận mưa vượt xa số liệu lịch sử làm tăng sai số của các mô hình dựa trên thống kê truyền thống.
Ông Hiển nói các dữ liệu của trận mưa ngày càng vượt xa số liệu lịch sử, khiến những mô hình vốn được hiệu chỉnh bằng chuỗi số liệu nhiều năm trước trở nên khó dự đoán hơn. Thêm vào đó, mưa cực đoan tập trung trong thời gian rất ngắn, dẫn tới lũ quét xảy ra nhanh, biên độ lớn và thời gian báo trước ngày càng hạn hẹp.
Sắp tới, Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia sẽ triển khai nhiều giải pháp để nâng cao độ chính xác và tính kịp thời của cảnh báo. Trong đó, cơ quan này mở rộng mạng lưới trạm đo mưa tự động, tăng sử dụng radar thời tiết, ảnh vệ tinh độ phân giải cao. Dữ liệu được cập nhật liên tục giúp nhận diện nhanh khu vực mưa lớn, cục bộ - yếu tố quan trọng nhất đối với lũ quét.
Cơ quan này cũng hợp tác với các tổ chức, trường đại học áp dụng các mô hình thủy văn - địa chất thời gian thực và kết hợp trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích mưa tích lũy, độ bão hòa của đất và độ dốc địa hình. Phương pháp mô phỏng nhanh giúp rút ngắn thời gian xử lý và đưa ra cảnh báo sớm hơn so với trước.
Bản đồ nguy cơ lũ quét - sạt lở đất cũng đang được cập nhật theo cấp xã; trong tương lai thậm chí sẽ cập nhật theo khu vực trọng điểm, điểm dân cư. Việc chi tiết hóa này nhằm giúp chính quyền địa phương dễ dàng xác định khu vực rủi ro và tổ chức sơ tán kịp thời.
“Có thể nói, dù thách thức từ mưa cực đoan ngày càng lớn nhưng chúng tôi đang từng bước hiện đại hóa hệ thống dự báo, cảnh báo để theo kịp thực tiễn mới. Mục tiêu là tăng tính nhanh nhạy, tăng độ chính xác và giảm thiểu tối đa rủi ro cho người dân ở các vùng dễ bị tổn thương”, ông Hiển nêu kỳ vọng.
Phải tư vấn cho chủ tịch tỉnh ra quyết định xả lũ chính xác
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, nêu thực tế vận hành xả lũ ở các hồ thủy điện hiện nay đang bị tình trạng “ai cũng đúng”.
Chuyện này nguy hiểm ở chỗ “không ai tư vấn cho chủ tịch tỉnh phải ra lệnh cho thủy điện xả lũ sớm”. Muốn tư vấn được, theo ông Dũng, phải có số liệu của lưu vực, địa hình, thủy văn; rồi khi có kịch bản lũ thì đưa vào tính toán, tham vấn được các thông số...
Đây không phải việc có thể thực hiện trong ngày một, ngày hai nhưng ông Dũng khẳng định “bắt buộc phải làm”, không thể nhìn đất nhìn trời rồi tự nhiên ra quyết định vận hành hồ thủy điện.
“Tôi thấy nhiều nơi có thể làm tốt, cứ thuê họ thử xem họ có “bắt” được lũ để xả sớm hay không? Cơ chế của chúng ta chưa ai nghĩ tới việc phải thuê dịch vụ làm việc đó. Không làm được thì phải đi thuê chứ”, ông Dũng nêu quan điểm.






















