Người vẽ bản đồ đường Trường Sơn
Vào thời điểm chiến tranh khốc liệt, có một con người ròng rã, tỉ mẩn làm một việc cực kỳ bí mật, tối trọng cho quốc gia, đó là vẽ bản đồ đường Trường Sơn. Để có ngày hòa bình hôm nay, ông đã góp phần không nhỏ.
Ông là Nguyễn Lương Cảnh, sinh năm 1946, ở phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, Quảng Bình.
Tháng 2/1965, Mỹ ném bom Đồng Hới, đang là dân quân, cậu trai trẻ Nguyễn Lương Cảnh xung phong ra trận. Đơn vị ông phụ trách làm đường, sửa đường sau khi bị quân địch phá hủy để cho bộ đội hành quân. “Chiến tranh ác liệt, sống chết trong tấc gang. Sau một loạt bom của giặc Mỹ, anh Lê Văn Dị, Đội trưởng Đội cầu 4, người mà tôi thầm kính mến, hy sinh tại Km39- U Bò- Đường 20. Tôi dùng tua vít, tìm đá khắc cho bạn tấm bia liệt sĩ để làm dịu lòng mình”, ông Cảnh nhớ lại. Đơn vị ông có 9 người đã hy sinh tại địa điểm đó.
Ban chỉ huy thấy đây là việc có ý nghĩa, điều ông về khắc bia cho 9 ngôi mộ đồng đội. Nhưng chiến tranh khốc liệt, nhiều đồng đội ngã xuống, vì thế ông phải tiếp tục công việc thầm lặng. Ban ngày tìm đá khắc bia, ban đêm ông “hành quân” đi cắm bia mộ cho đồng đội. Lúc có xe thì ông đỡ đôi chút chứ không thì thường đi bộ, vác bia mộ đến địa điểm đồng đội hy sinh đã được báo về. Ông bảo vác bia đi bộ cả 50 km đường là chuyện thường.
Công việc ông cứ thế cho đến tháng 2/1967, Ban chỉ huy thấy ông khéo tay nên chuyển ông về Bộ Tư lệnh 559 để vẽ bản đồ. Không được làm công việc chăm sóc đồng đội ngã xuống, ông rất buồn, nhưng phải theo lệnh của chỉ huy. Giờ đây, trên những nẻo đường Trường Sơn, những tấm bia lưu dấu nơi an nghỉ của đồng đội đã trở thành “địa chỉ đỏ” cho biết bao đơn vị, gia đình liệt sĩ tìm đến đưa người thân về với quê hương, gia đình.
Trở thành người vẽ bản đồ
Sau thời gian ngắn học việc, được sự đồng ý của Tư lệnh trưởng Đồng Sĩ Nguyên, ông Cảnh được tuyển vào Phòng Bản đồ. Công việc của ông là vẽ, quản lý toàn bộ bản đồ đường Trường Sơn từ tháng 5/1967. Thời gian đó, mới khoảng 10 tuyến đường chính như: đường 16, 20, 10, 12..., nhưng khi chiến tranh kết thúc, đến tháng 2/1976, toàn bộ hệ thống đường Trường Sơn có 216 con đường (chưa kể đường sông) dài trên 20.000 km. Công việc của người vẽ bản đồ thời đó không hề đơn giản và phải tuyệt mật.
Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên nhận xét về ông Cảnh: “Khi ở chiến trường tôi làm việc chủ yếu trên bản đồ. Chú Cảnh là người tôi chọn để làm việc đó. Chú Cảnh lúc bấy giờ là một chàng trai khỏe đẹp về dáng vóc, trong sáng về tâm hồn, dũng cảm trong chiến đấu; thành thạo, cẩn trọng và đáng tin cậy trong nghề nghiệp. Đó là một người tôi rất quý mến. Tôi đã dự kiến được trước, con người đó nhất định thành đạt. Chữ tâm đối với con người đó bao phủ tất cả!”. |
Để vẽ được một cách chuẩn xác, phải thu thập, nghiên cứu từ nhiều tài liệu từ bản đồ thông thường, bản đồ của địch mình thu được và các đơn vị tại chỗ khảo sát gửi lên, trinh sát gửi về... Rừng núi mênh mông, gập ghềnh... khiến người vẽ rất khó định vị. Có nhiều tuyến đường chính phải luồn lách dưới lùm cây đòi hỏi người vẽ phải dồn hết tâm lực mới chính xác. Nhiều đoạn đường chưa làm xong đã bị địch ném bom, rồi lại phải chỉnh.
Người vẽ bản đồ như ông Cảnh không hề được tiếp xúc với ai ngoài chỉ huy, không được phép nói với ai về nghề nghiệp mình làm. Xác định được tầm quan trọng đó, trong thời gian ở chiến trường, ông không cho ai biết mình làm nghề gì. Nếu để sơ suất một chút, dễ lộ bí mật quốc gia, có thể làm ảnh hưởng đến cuộc chiến.
Trong khoảng thời gian ấy, không thể kể hết những kỷ niệm mà ông không thể quên. Ông nhớ một lần Tư lệnh trưởng Đồng Sĩ Nguyên bảo ông vẽ bản đồ chi tiết từ vị trí đóng quân của cấp đại đội đến cấp sư đoàn với đầy đủ trận địa, kho tàng, tỷ lệ 1:500.000 để báo cáo với Bộ Tổng tư lệnh. Sau 4 tháng thì ông hoàn thành nhiệm vụ.
"Khi đưa lên trình với Tư lệnh trưởng, sau một hồi xem xét, ông bảo về làm lại. Tôi sững sờ, vì hầu như đã đầy đủ các chi tiết. Ai ngờ, “vì bản đồ vẽ đúng quá, cụ thể quá, mới phải về làm lại”. Tôi phân vân, thì Tư lệnh trưởng giải thích rằng, sợ bị phục kích sẽ rất nguy hiểm. Sau đó, tôi về chỉnh sửa lại với tỷ lệ sai lệch khoảng 10 km”, ông kể.
Bước ra khỏi cuộc chiến, ông là người gây dựng một trong những doanh nghiệp mạnh ở thành phố Đồng Hới. Với cơ sở sản xuất nhôm kính, ông đã dạy nghề cho hàng trăm con em quê hương, con của đồng đội, tạo việc làm thường xuyên cho hàng chục người. Không những thế, quán cà phê nổi tiếng nhất nhì thành phố Đồng Hới là “nguồn thu nhập” không nhỏ, làm tăng hiệu suất kinh doanh của ông.
Vì vậy, từ nhiều năm nay, ông là một trong những cựu chiến binh tiêu biểu của tỉnh Quảng Bình kinh doanh giỏi. Mỗi năm doanh thu của doanh nghiệp ông lên đến trên 5 tỷ đồng.
Theo Sài Gòn Giải Phóng