Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV
  1. Dòng sự kiện:
  2. Cơn bão Koto (số 15)
  3. Mưa lũ lịch sử ở miền Trung

Bắt AI "chứng minh an toàn", Việt Nam dễ tụt lại trong cạnh tranh toàn cầu

Hằng T. Nguyễn

(Dân trí) - Đại biểu Quốc hội cho rằng yêu cầu AI phải chứng minh an toàn tuyệt đối trước khi chạy là không phù hợp nguyên lý công nghệ, có thể kìm hãm sáng tạo và khiến Việt Nam tụt lại trong cạnh tranh quốc tế.

"Không thể quản lý thuật toán như quản lý con người"

Tại phiên thảo luận về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo chiều 27/11, đại biểu Bế Trung Anh (Vĩnh Long) nhận định đây là một dự án luật mang tính mở đường quan trọng cho ngành công nghiệp mới của Việt Nam.

Ông đồng tình với tinh thần kiến tạo, nhân bản của dự thảo, nhưng cho rằng tư duy quản trị cũ đang được áp dụng cho một công nghệ hoàn toàn khác về bản chất.

Theo ông, dự thảo đang đối xử với AI như một người xin cấp phép, yêu cầu phân loại trước khi dùng, thẩm định trước khi vận hành, đánh giá sự phù hợp trước khi lưu hành, phải xin phép trước khi thử nghiệm và hồ sơ phải hoàn chỉnh trước khi hoạt động.

"Điều đó chẳng khác nào yêu cầu AI phải chứng minh an toàn tuyệt đối trước khi chạy, giống như bắt một đứa trẻ phải ngoan suốt đời mới được đi học mẫu giáo", đại biểu ví von.

Bắt AI chứng minh an toàn, Việt Nam dễ tụt lại trong cạnh tranh toàn cầu - 1

Đại biểu Bế Trung Anh (Vĩnh Long) (Ảnh: Media QH).

Ông phân tích, mô hình học sâu có hành vi thay đổi theo dữ liệu, rủi ro chỉ bộc lộ khi vận hành và đầu ra phụ thuộc ngữ cảnh.

"AI không nằm trong hồ sơ mà nằm trong hành vi, mà hành vi chỉ xuất hiện khi mô hình chạy", ông nói, nhấn mạnh tiền kiểm không thể đo được rủi ro của thuật toán. Vì vậy, an toàn phải đến từ giám sát liên tục, kiểm nghiệm liên tục và đánh giá theo thời gian thực.

Đại biểu đánh giá cao các bước tiến của dự thảo. Tuy nhiên, ông cho rằng nếu tiếp tục quản trị AI bằng "logic hành chính" thì Việt Nam khó xây dựng được năng lực cạnh tranh.

Ông viện dẫn kinh nghiệm quốc tế như Mỹ, Singapore, EU hay Canada - nơi AI được kiểm soát bằng kiểm thử kỹ thuật, giám sát thời gian thực, quản lý năng lực tính toán và dấu vết nhận diện, chứ không dựa trên bộ hồ sơ tiền kiểm dày đặc.

Từ đó, ông đề xuất chuyển từ "tiền kiểm bắt buộc" sang "triển khai có điều kiện và giám sát trong vận hành". Cụ thể, hệ thống AI, kể cả rủi ro cao, được triển khai ngay sau khi đăng ký; việc đánh giá sự phù hợp diễn ra trong thực tế; tiền kiểm chỉ áp dụng với lĩnh vực liên quan tính mạng như y tế, phương tiện tự hành tốc độ cao; bổ sung đầy đủ công cụ kỹ thuật hiện đại; và chuyển từ cơ chế "đăng ký - chờ - phê duyệt" sang "đăng ký - chạy ngay - giám sát bằng dữ liệu".

Theo ông, cách tiếp cận này cho phép Nhà nước giữ quyền giám sát mạnh mẽ nhưng không tạo rào cản cho doanh nghiệp, giảm tâm lý e ngại và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

"Không thể quản lý thuật toán như quản lý con người, không thể yêu cầu mô hình thông minh xin phép như một cán bộ xin bổ nhiệm", ông nhấn mạnh. Nếu Việt Nam muốn bước vào kỷ nguyên AI với tư thế kiến tạo, "triết lý quản trị phải thay đổi trước và luật pháp phải bay cao hơn đối tượng được điều chỉnh".

Khoảng cách trong cuộc đua AI toàn cầu là cảnh báo về chủ quyền số

Cùng trăn trở về vấn đề, đại biểu Phạm Trọng Nhân (TPHCM) đưa ra bức tranh rộng hơn về năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong bối cảnh thế giới tăng tốc phát triển AI.

Ông dẫn số liệu chỉ trong 10 tháng đầu năm, Trung Quốc nộp hơn 62.390 bằng sáng chế về AI - gấp 12 lần tổng số bằng sáng chế AI của Việt Nam; Mỹ thu hút hơn 40 tỷ USD vốn tư nhân vào AI trong năm 2024; và 99% mô hình nền tảng mà Việt Nam đang dùng là của nước ngoài.

Theo ông, đây không chỉ là khoảng cách mà còn là "cảnh báo về chủ quyền số". Nếu Việt Nam chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ dữ liệu và ứng dụng công nghệ nước ngoài, rủi ro phụ thuộc sẽ ngày càng lớn.

"Hoặc là chúng ta chủ động biến AI thành năng lực cạnh tranh quốc gia, hoặc sẽ bị bỏ lại trong chuỗi cạnh tranh toàn cầu", ông nói.

Bắt AI chứng minh an toàn, Việt Nam dễ tụt lại trong cạnh tranh toàn cầu - 2

Đại biểu Phạm Trọng Nhân (TPHCM) (Ảnh: Media QH).

Đại biểu nêu ba nhóm rủi ro cốt lõi cần định hướng trong xây dựng luật.

Thứ nhất là quyền riêng tư và an ninh dữ liệu. Hiện hơn 97% dữ liệu giá trị cao của thế giới nằm trong tay 5 nền tảng xuyên biên giới. Nếu không hành động, mô hình tiếng Việt lớn cũng có thể bị phụ thuộc mạnh vào dữ liệu và công nghệ nước ngoài.

Thứ hai là rủi ro thiên lệch và minh bạch trong quyết định do AI hỗ trợ, từ tuyển dụng, học tập đến phân công luồng nhiệm vụ công.

"Không thể để một hộp đen thuật toán đưa ra kết quả mà người dân không hiểu và cơ quan quản lý không thể giải trình", ông nói.

Thứ ba là nguy cơ thông tin sai lệch và thao túng nhận thức. Đại biểu dẫn số liệu hàng trăm nghìn video giả về nội dung chính trị nhắm vào các lãnh đạo quốc gia đang phát triển, trong đó châu Á chiếm tới hơn 41%. 

"Một video giả có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín và ổn định xã hội", ông nhấn mạnh. 

Ông nhận định triết lý quan trọng nhất của Luật AI không phải "kiểm soát AI" mà là định hướng phát triển, mở đường cho sáng tạo nhưng bảo vệ con người và cân bằng giữa đổi mới - tự do - an toàn xã hội. Vì vậy, Việt Nam cần cách tiếp cận phù hợp với năng lực quản trị và mục tiêu dài hạn.

Ông đề xuất sáu hướng lớn cho dự thảo: phân loại rủi ro theo 4 bậc; bảo vệ quyền công dân; yêu cầu nền tảng nước ngoài lớn đặt văn phòng hoặc lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam; thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về hệ thống AI; xây dựng cơ chế cập nhật theo thời gian thực; và nghiên cứu chế tài mạnh, kể cả trách nhiệm hình sự với hành vi triển khai hệ thống AI rủi ro cao không đảm bảo an toàn.