Sau vụ soái hạm Moskva bị Ukraine đánh chìm, Nga sắp có "quái vật" khác
(Dân trí) - Tuần dương hạm khổng lồ 20.000 tấn của Nga mang theo 560 tên lửa đã bắt đầu thử nghiệm trên biển, đủ sức thách thức nhóm tác chiến tàu sân bay đối phương.

Một tàu tuần dương lớp Kirov của Hải quân Nga (Ảnh minh họa: Wikipedia).
Vì sao Hải quân Nga hồi sinh tàu tuần dương Đô đốc Nakhimov?
Sau những thất bại không mấy dễ chịu dưới tay Ukraine, hạm đội tàu mặt nước của Hải quân Nga cuối cùng cũng nhận được tin vui. Ngày 18/8, hãng thông tấn TASS cho biết, tàu tuần dương tên lửa hạt nhân thứ ba thuộc lớp Kirov - Đô đốc Nakhimov - đã rời bến Nhà máy Chế tạo máy phương Bắc sau 26 năm nằm cảng để bắt đầu thử nghiệm trên biển.
Kể từ khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra, hạm đội tàu mặt nước Nga đối mặt với một số tổn thất như tàu tuần dương tên lửa Moskva (soái hạm của Hạm đội Biển Đen), đã bị tên lửa Ukraine đánh chìm, trong khi tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov - hàng không mẫu hạm duy nhất - dự kiến sẽ bị loại biên.
Tổng thống Nga Valdimir Putin sau đó tuyên bố "việc chế tạo tàu ngầm tên lửa chiến lược là ưu tiên của Nga", dường như ông ám chỉ rằng hạm đội tàu mặt nước sẽ trở thành một lực lượng hỗ trợ, chủ yếu dựa vào các khinh hạm Dự án 22350 (lớp Đô đốc Gorshkov), đảm bảo duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu trong tương lai.
Tuy nhiên, sự hồi sinh của một tàu tuần dương chạy bằng năng lượng hạt nhân - sở hữu khả năng tác chiến đơn hạm vượt trội, đặc biệt là có khả năng cung cấp hỏa lực phòng không tầm xa - chắc chắn đã tiếp thêm sức mạnh cho hạm đội mặt nước của Hải quân Nga, đồng thời mang ý nghĩa chiến thuật to lớn hơn.
Dù vậy, khách quan mà nói, tàu Đô đốc Nakhimov, kể cả sau khi nâng cấp được đánh giá là hiện thân cho sự phát triển đỉnh cao của hạm đội tàu mặt nước Nga kể từ sau Chiến tranh Lạnh, vẫn chỉ là cái bóng của Liên Xô.
Số phận long đong
Là chiếc tuần dương hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân thứ ba thuộc lớp Kirov nổi tiếng, nhưng tàu Đô đốc Nakhimov có số phận vô cùng “long đong”. Nó vừa được đưa vào biên chế thì Liên Xô sụp đổ, những năm sau đó, Hải quân Nga rơi vào tình trạng thiếu hụt tài chính và hỗn loạn quản lý kéo dài.
Thêm vào đó, thiết kế lò phản ứng hạt nhân của loại tàu này cũng gặp nhiều vấn đề. Do đó, đến năm 1997, tàu Đô đốc Nakhimov đã phải dừng hoạt động do lò phản ứng gặp sự cố. Dự án sửa chữa bị kéo dài 26 năm, mãi đến nay mới hoàn thành.
Lớp tàu Kirov - có lượng giãn nước đầy tải 25.000-26.000 tấn, sở hữu khả năng “công thủ toàn diện” - là sản phẩm cuối cùng của Liên Xô trong cuộc đấu tranh giành quyền bá chủ trên biển với Mỹ.
Lúc bấy giờ, tàu Đô đốc Nakhimov được trang bị hỏa lực cực mạnh, gồm 20 tên lửa chống hạm hạng nặng P-700 Granit, 96 tên lửa phòng không tầm xa 48N6 (tầm bắn 90-150km), 128 tên lửa phòng không tầm trung 9M330 (tầm bắn 45km), 40 tên lửa phòng không tầm ngắn 9M33 (tầm bắn 10km), và hệ thống phòng thủ tầm gần được trang bị 8 pháo phòng thủ tầm gần AK-630M hoặc 4 tổ hợp pháo - tên lửa Kashtan.
Trong Chiến tranh Lạnh, nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ duy trì bán kính tác chiến khoảng 600km, do vậy, tuần dương hạm lớp Kirov, sử dụng tên lửa P-700 có tầm bắn 550km, có thể tấn công từ rìa hệ thống phòng thủ của đội hình tàu sân bay đối phương.
Phương thức tác chiến của tuần dương hạm lớp Kirov là dẫn đầu toàn bộ hạm đội trong một cuộc tấn công bất ngờ, với nòng cốt tên lửa chống hạm P-700, cố gắng tiếp cận mục tiêu trong tầm bắn, sau đó phóng một loạt 20 quả đạn cùng lúc, khiến hệ thống phòng không đối phương quá tải.
Trong nhiệm vụ bảo vệ bầu trời, con tàu dựa vào hàng trăm tên lửa phòng không để chống lại các máy bay trên tàu sân bay Mỹ và tối đa hóa cơ hội sống sót của hạm đội. Chiến lược này là một ví dụ điển hình về việc đổi hỏa lực lấy thành công.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga không thể duy trì các tàu tuần dương chạy bằng năng lượng hạt nhân tốn kém này. Hai chiếc lớp Kirov (chiếc đầu tiên và thứ hai) đã bị cho ngừng hoạt động và tháo dỡ, trong khi chiếc thứ ba, Đô đốc Nakhimov, phải nằm cảng do trục trặc lâu dài. Chỉ có chiếc thứ tư, Peter Đại đế, là còn có thể "túc tắc" duy trì hoạt động.
Mặc dù vũ khí của lớp Kirov được coi là khá mạnh mẽ, nhưng nó khó có thể gây ra mối đe dọa đáng kể cho hàng không mẫu hạm của Washington, đặc biệt là khi bán kính tấn công và phòng thủ của nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ đã được tăng lên rất nhiều.
Hiện tại, tên lửa chống hạm P-700 và tên lửa phòng không 48N6 dường như không đủ sức "làm nên chuyện lớn", do đó, Nga đã nâng cấp toàn diện vũ khí của Đô đốc Nakhimov.

Không ảnh một chiếc tuần dương hạm lớp Kirov của Hải quân Nga nhìn từ phía sau (Ảnh: USN).
Bệ phóng tên lửa P-700 ban đầu được tháo dỡ và thay thế bằng 10 hệ thống phóng thẳng đứng đa năng (mỗi cụm 8 ống) mới nhất của Hải quân Nga, có thể khai hỏa các tên lửa như P-800 Oniks, 3M22 Zircon, 3M14 Kalibr,... Từ 20 tên lửa chống hạm nguyên thủy, hỏa lực của 80 tên lửa hành trình tầm xa hoặc tên lửa siêu vượt âm, và tầm bắn tăng từ 500 lên 1.000-2.500km, đã biến Đô đốc Nakhimov thành chiếm hạm cực kỳ đáng gờm.
Hơn nữa, nó không chỉ được sử dụng cho các hoạt động chống hạm mà còn đảm nhiệm vai trò tấn công chính xác tầm xa trên bộ. Do đó, nhiệm vụ của Đô đốc Nakhimov đã thay đổi từ "tấn công tàu sân bay", thành "tàu tấn công đa năng", có thể thích ứng tốt hơn với tình hình hiện tại của Hải quân Nga.
Về phòng không, tên lửa tầm trung 9M330 và tầm ngắn 9M33 đã được loại bỏ và thay thế bằng 12 hệ thống phóng thẳng đứng 3K96 Fortress (mỗi cụm 8 ống), có khả năng mang 96 tên lửa 9M96 (tầm bắn tối đa 120km chuyên đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn) hoặc 96 tên lửa phòng không tầm xa 48N6DM hoặc 40N6 (thay cho đạn 48N6 ban đầu), giúp tăng tầm bắn từ 150km lên 240km hoặc 400km.
Nhờ đó, năng lực phòng không khu vực của Đô đốc Nakhimov được mở rộng đáng kể. Trước đây chỉ dựa vào 96 tên lửa 48N6, nay được trang bị 96 tên lửa 48N6DM/40N6 và 96 tên lửa 9M96, nâng tổng số lên 192 quả. Bán kính hỏa lực của tàu đã đạt 400km và có khả năng chống tên lửa siêu thanh ở mức nhất định.
Ngoài ra, hệ thống phóng thẳng đứng 3K96 Fortress cũng có thể được trang bị tên lửa phòng không tầm ngắn 9M100 theo định dạng "4 tên lửa trên mỗi ô".
Như vậy, sau khi nâng cấp, Đô đốc Nakhimov có thể mang theo tổng cộng 560 tên lửa chống hạm hoặc phòng không, đủ sức một mình thách thức cả hạm đội tàu sân bay của Anh và Pháp.
Ngay cả khi đối đầu với cụm tác chiến tàu sân bay Mỹ, nó vẫn có khả năng đe dọa nhất định. Suy cho cùng, ngay cả cụm tàu sân bay của Hải quân Mỹ cũng chưa chắc có thể đánh chặn được toàn bộ 80 tên lửa siêu thanh 3M22 Zircon được phóng đi cùng lúc. Phương án an toàn nhất là đánh chìm tàu Đô đốc Nakhimov, trước khi nó tiến vào cách đội hình tàu sân bay 1.000km.

Tuần dương hạm Đô đốc Nakhimov rời cảng ra biển thử nghiệm sau quá trình nâng cấp (Ảnh: Alekseeva/Navalnews).
Điểm yếu cố hữu của tàu chiến Liên Xô/Nga
Nếu so sánh, về hỏa lực, Đô đốc Nakhimov mạnh hơn nhiều so với tàu khu trục của Mỹ, Anh, Nhật hoặc Trung Quốc. Ngay như tàu tuần dương tên lửa Moskva cũng rất mạnh, nhưng buồn thay, nó đã dễ dàng bị Ukraine đánh chìm chỉ bằng một vài tên lửa chống hạm cận âm trong thực chiến.
Khách quan mà nói, Đô đốc Nakhimov cũng có những nhược điểm tương tự Moskva, đó là thiếu radar phản ứng nhanh để đối phó với các mục tiêu tầm thấp. Mặc dù nó có thể mang theo gần 200 tên lửa phòng không tầm xa, nhưng số lượng tên lửa lớn chưa chắc đã đảm bảo khả năng chống chịu tốt hơn trước các cuộc tấn công dồn dập của đối phương và bao quát đủ "bốn phương tám hướng" mà không có điểm mù.
Một nhược điểm phổ biến của các tàu chiến lớn của Liên Xô là việc trang bị quá nhiều radar và thiết bị điện tử trên đài chỉ huy. Kết quả là khả năng tương thích điện từ rất thấp dẫn tới nhiễu giữa các ăng-ten radar rất hay xảy ra.
Ví dụ, đài chỉ huy của tàu lớp Kirov được trang bị radar cảnh giới nhìn vòng tầm xa MR-800, radar trinh sát tầm ngắn MR-710 Frigatebird, radar điều khiển hỏa lực cho nhiều loại tên lửa phòng không, radar đối hải và nhiều ăng-ten tác chiến điện tử và hỗ trợ điện tử.
Soái hạm Moskva dễ dàng bị Ukraine đánh chìm không chỉ vì chỉ huy đánh giá thấp đối thủ, chủ quan tiến vào tầm bắn của tên lửa Ukraine, mà còn vì các vấn đề tương thích với nhiều thiết bị điện tử trên tàu.
Hơn nữa, cả tàu tuần dương lớp Moskva lẫn Kirov đều ưu tiên cảnh báo sớm và phát hiện các mục tiêu tầm trung và tầm cao, nhưng lại bỏ qua các mục tiêu tầm thấp.
Các tàu khu trục của Mỹ sử dụng mảng radar băng tần kép để nhận thức tình huống trên không, với mảng băng tần X cung cấp nhận thức tình huống trên không tầm gần, giúp kíp chiến đấu trên tàu phản ứng nhanh ở độ cao thấp.
Trong khi đó, các tàu khu trục lớp Moskva và Kirov không có radar phản ứng nhanh băng tần X và chỉ dựa vào băng tần C và L để phát hiện mục tiêu tầm thấp, vốn có thể dễ bị sót lọt các mục tiêu bay chậm, thấp. Nếu tàu Đô đốc Nakhimov được triển khai tới Biển Đen, rất có thể nó sẽ chịu chung số phận như tàu Moskva.
Ngoài ra, cần có một hệ thống phòng thủ tầm ngắn đáng tin cậy để chống lại các mục tiêu tầm thấp bất ngờ. Sau khi nâng cấp, Đô đốc Nakhimov được trang bị 6 hệ thống phòng không tầm ngắn Pantsir-M (phiên bản hải quân của hệ thống Pantsir).
Vấn đề lớn nhất của hệ thống phòng thủ tầm gần của Nga là tốc độ phản ứng chậm. Pháo bắn nhanh có hỏa lực dư thừa nhưng độ chính xác lại không đủ, và tỷ lệ đánh chặn mục tiêu cận âm, hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ của pháo thủ.
Những tàu chiến mới của Mỹ được trang bị các hệ thống chống tên lửa độc lập như SeaRAM, không phụ thuộc vào hệ thống cảm biến bên ngoài. Chúng có khả năng phản ứng nhanh và chống lại các cuộc tấn công dồn dập. Một hệ thống SeaRAM có thể cùng lúc chống lại khoảng 10 mục tiêu cận âm.
Tàu Đô đốc Nakhimov về cơ bản vẫn đi theo mô hình cũ của Liên Xô, hoàn toàn dựa vào lợi thế hỏa lực để đè bẹp đối phương, chưa thể theo kịp công nghệ thông tin và tự động hóa.
Ví dụ về hỏa lực, tàu khu trục Type 055 của Trung Quốc kém xa tàu khu trục Đô đốc Nakhimov nhưng về khả năng phát hiện và chống chịu các cuộc tấn công dồn dập thì ngược lại.
Hơn nữa, tàu khu trục Type 055 có khả năng giảm bộc lộ tín hiệu radar tốt hơn hẳn so với Đô đốc Nakhimov cồng kềnh, và chiến hạm Trung Quốc được trang bị khả năng tác chiến điện tử, giúp nó có khả năng sống sót cao hơn trên chiến trường.