Tâm điểm
Lý Văn Vinh

Khi doanh nghiệp tư nhân xung phong làm đường sắt tốc độ cao

“Đến nay, có không dưới 5 doanh nghiệp tư nhân đề xuất làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Con số này chắc chắn còn nhiều nữa, Chính phủ rất hoan nghênh”, Phó Thủ tướng Nguyễn Hòa Bình cho biết, khi trả lời phóng viên báo Dân trí bên hành lang Quốc hội tại kỳ họp vừa qua.

Thông tin từ Phó Thủ tướng phần nào cho thấy quyết tâm và sự tự tin của khu vực kinh tế tư nhân trong mong muốn tham gia xây dựng các hạ tầng  chiến lược của đất nước.

Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 198 của Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân đang mở ra một giai đoạn mới: huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực xã hội, đặc biệt là khu vực tư nhân vào các dự án trọng điểm quốc gia. Trong đó, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam không chỉ là biểu tượng cho tầm nhìn hiện đại hóa đất nước, mà còn là cơ hội và phép thử hiệu quả sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân.

Khi doanh nghiệp tư nhân xung phong làm đường sắt tốc độ cao - 1

(Ảnh minh họa do AI tạo)

Không thể phủ nhận rằng khu vực kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trò then chốt trong phát triển hạ tầng hiện đại. Tư nhân không chỉ là vốn – mà còn là động lực đổi mới. Họ mang đến khả năng sáng tạo kỹ thuật, tư duy thị trường linh hoạt, tiếp cận nhanh với công nghệ mới và vận hành theo hiệu quả thay vì tư duy hành chính hóa. Đặc biệt, những áp lực về tiến độ, chất lượng và hiệu quả tài chính khiến khu vực tư nhân buộc phải tối ưu hóa mọi nguồn lực – điều mà các dự án lớn như đường sắt tốc độ cao rất cần.

Nếu được trao cơ chế phù hợp, doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể đảm nhận vai trò chủ lực: từ thi công, cung ứng thiết bị, vận hành dịch vụ đến phát triển đô thị thông minh gắn với các nhà ga theo mô hình TOD (Transit-Oriented Development). Đây không chỉ là sự chia sẻ gánh nặng tài chính, mà còn là cách để tối ưu hóa sử dụng đất, kích hoạt tăng trưởng kinh tế – xã hội tại các khu vực kết nối hạ tầng.

Thực tiễn ở nhiều quốc gia phát triển cho thấy: các công trình hạ tầng mang tính bước ngoặt đều có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân ở các mức độ khác nhau. Ví dụ ở Hàn Quốc, từ thập niên 1960, khi đất nước còn nghèo, Chính phủ đã thúc đẩy chính sách phát triển hạ tầng toàn diện, trong đó ưu tiên cho phép các tập đoàn tư nhân đầu tư và cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực điện, xi măng, và đặc biệt là đường sắt. Tuyến đường sắt cao tốc KTX ở Hàn Quốc là một dự án do nhà nước đầu tư và điều hành, nhưng doanh nghiệp tư nhân đã tham gia vào một số phần việc quan trọng của dự án, nhất là trong vận hành và dịch vụ.

Trung Quốc – quốc gia hiện có mạng lưới đường sắt cao tốc dài nhất thế giới – đã bắt đầu từ con số không. Họ không làm tất cả bằng ngân sách nhà nước, mà kết hợp hài hòa giữa vốn ngân sách, vốn vay, và các mô hình PPP (hợp tác công tư) linh hoạt, đồng thời mở rộng không gian cho doanh nghiệp trong nước tham gia thiết kế, sản xuất toa xe, xây dựng nhà ga và khai thác dịch vụ. Kết quả là chỉ sau hơn 20 năm, Trung Quốc có hơn 48.000 km đường sắt cao tốc, trở thành hình mẫu trong việc kết hợp giữa Nhà nước dẫn dắt và doanh nghiệp đồng hành.

Tại Việt Nam, lâu nay khối doanh nghiệp tư nhân không đứng ngoài trong phát triển hạ tầng. Ở lĩnh vực giao thông, các tuyến đường cao tốc TPHCM – Trung Lương, Hà Nội – Hải Phòng, cầu Đồng Nai, sân bay Vân Đồn… đều có sự góp mặt tích cực của doanh nghiệp tư nhân từ đầu tư, thi công đến vận hành. Dù có những bài học cần rút kinh nghiệm, song không thể phủ nhận rằng nếu không có khu vực tư nhân, Việt Nam khó đạt được tốc độ phát triển hạ tầng như ngày nay.

Ở lĩnh vực năng lượng, các dự án BOT như nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 3, Mông Dương 2 đã trở thành hình mẫu về vận hành hiệu quả, tuân thủ hợp đồng và đảm bảo kỹ thuật. Nhà nước không phải chi ngân sách nhưng vẫn đảm bảo an ninh năng lượng, trong khi doanh nghiệp được hưởng lợi nhuận hợp lý và minh bạch.

Quan trọng hơn cả, năng lực của doanh nghiệp tư nhân trong nước đã trưởng thành vượt bậc. Nhiều tập đoàn từng bước làm chủ công nghệ thi công hiện đại, huy động được vốn quốc tế, sở hữu đội ngũ chuyên gia có thể làm việc ngang hàng với đối tác toàn cầu. Việc tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia đường sắt tốc độ cao chính là một bước đi chiến lược để nâng tầm doanh nghiệp nội địa và tiết kiệm nguồn lực cho quốc gia.

Các cấp có thẩm quyền đã mở lối bằng định hướng hợp lý và đúng lúc. Điều cần thiết lúc này là bộ ngành, địa phương liên quan cần cụ thể hóa bằng hành động rõ ràng. Cụ thể như: Rà soát, hoàn thiện khung pháp lý về đối tác công – tư (PPP), đặc biệt là các điều khoản về chia sẻ rủi ro, bảo lãnh doanh thu tối thiểu, ưu đãi thuế và cơ chế giải quyết tranh chấp minh bạch, nhanh chóng.

Các dự án hạ tầng chiến lược lớn có thể tính toán nhiều cách thức để doanh nghiệp tư nhân tham gia, ví dụ như đầu tư trọn gói hay chia nhỏ dự án thành các gói đầu tư phù hợp với khả năng và mong muốn của doanh nghiệp. Trong đó, ưu tiên doanh nghiệp trong nước có năng lực thực sự, đồng thời tạo điều kiện cho liên doanh với đối tác quốc tế để nâng cao trình độ công nghệ và quản trị.

Nhà nước cần đảm bảo môi trường đầu tư ổn định, đồng bộ và có tính dự đoán cao, bởi không có nhà đầu tư nào muốn rót hàng nghìn tỷ đồng vào dự án mà pháp lý có thể thay đổi giữa chừng.

Trong một thế giới biến chuyển từng ngày, một quốc gia không thể đi xa nếu chỉ có nhà nước chịu trách nhiệm toàn bộ việc xây dựng hạ tầng. Việt Nam mở cơ chế mở đường cho tư nhân tham gia đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam cho thấy tầm nhìn mới: phát triển hạ tầng là trách nhiệm chung của toàn xã hội.

Chúng ta cần đồng hành và cổ vũ cho chủ trương này – không chỉ bằng lời nói, mà bằng cách lan tỏa nhận thức tích cực, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, và trao cơ hội công bằng cho khu vực tư nhân vươn lên.

Tác giả: Ông Lý Văn Vinh là Tiến sĩ quản lý đô thị; nguyên thư ký Bộ trưởng Bộ Xây dựng; nguyên Giám đốc Cung triển lãm kiến trúc, quy hoạch quốc gia.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!