Đưa hàng triệu hộ kinh doanh lên doanh nghiệp: Cần những hỗ trợ thực chất
Gần đây, các hộ kinh doanh đã quan tâm nhiều hơn đến quy định về thuế, hóa đơn, đặc biệt là những hộ có doanh thu trên 1 tỷ đồng mỗi năm thuộc các ngành nghề như ăn uống, khách sạn, bán lẻ, vận tải hành khách, thẩm mỹ, vui chơi giải trí...
Theo quy định, từ ngày 1/6, các hộ này sẽ phải sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, kết nối dữ liệu với cơ quan thuế. Hiện có khoảng 37.000 hộ kinh doanh nằm trong diện nêu trên, thay vì nộp thuế khoán như trước, họ sẽ phải kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế.
Khu vực kinh tế tư nhân hiện có hơn 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, trong đó trên 3,6 triệu hộ kinh doanh đã có mã số thuế. Như vậy, con số 37.000 hộ chuyển từ thuế khoán sang thuế theo doanh thu chỉ chiếm một tỷ lệ khá nhỏ. Vấn đề rộng lớn hơn là làm sao để khuyến khích các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp theo chủ trương của Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Qua đó góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, tương đương 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân.

Một người kinh doanh đang chuẩn bị hàng trong dịp Tết Đoan Ngọ ở chợ Hàng Bè (Ảnh: Hải Long).
Một doanh nhân đã làm thống kê cho thấy, trong số 6 nước lớn nhất ASEAN và 3 nước Đông Bắc Á, Việt Nam đang là quốc gia có tỷ lệ số doanh nghiệp trên tổng dân số thấp nhất, chỉ chưa đến 1% (gần 1 triệu doanh nghiệp trên 100 triệu dân). Trong khi đó, tỷ lệ này ở Philippines là 1,1%, Nhật Bản là 2,98%, Malaysia là 3,52%, Singapore là 4,83%, Thái Lan là 4,86%, Đài Loan (Trung Quốc) là 7,14%, Hàn Quốc là 14,23% và Indonesia là 23,18%.
Doanh nghiệp được xem là trung tâm của mọi hoạt động kinh tế, để dân giàu, nước mạnh thì Việt Nam cần nâng cao cả số lượng và chất lượng doanh nghiệp, trước mắt là bằng hoặc hơn các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Câu hỏi đặt ra: cần làm gì để khuyến khích các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp, và trong điều kiện nào thì việc chuyển đổi này sẽ đạt được hiệu quả tối ưu?
So với các mô hình tổ chức kinh tế khác, các hộ kinh doanh thường được xếp vào “vùng xám” – những đơn vị có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhưng không phải là doanh nghiệp và nhìn chung dữ liệu kinh doanh cũng không minh bạch như doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng “vùng xám” tồn tại ở bất cứ nền kinh tế nào, và ở một mức độ nào đó, “vùng xám” này chính là biểu hiện mạnh mẽ của tính linh hoạt trong kinh tế thị trường. Dù không vận hành theo các thể chế chính thức – ví dụ như Luật Doanh nghiệp, nhưng các hộ kinh doanh vẫn là những đơn vị có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế và xã hội, cả ở góc độ nghĩa vụ thuế lẫn giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội.
Vì nhiều lý do, một bộ phận cá nhân, hộ kinh doanh sẽ không muốn chuyển đổi thành doanh nghiệp, ví dụ như việc kinh doanh của họ thực sự nhỏ lẻ và không thể phát triển thêm (chẳng hạn cho thuê một, hai căn hộ), nhưng tôi tin rằng số lượng đáng kể hộ kinh doanh sẽ “đi lên” doanh nghiệp nếu môi trường kinh doanh thuận lợi, được hỗ trợ tốt và các điều kiện liên quan cho phép. Con số này có thể lên đến hàng triệu.
Tất nhiên việc chính thức hóa “vùng xám” sẽ đòi hỏi quá trình với nhiều giải pháp đồng bộ. Trong đó, theo tôi, các giải pháp phải được thiết lập theo hướng củng cố, hỗ trợ, tương thích với sự phát triển của các hộ kinh doanh thay vì tạo ra áp lực nào đó. Ở đây tôi nhấn mạnh lại rằng sự tồn tại của các hộ kinh doanh có ý nghĩa rất lớn đối với vấn đề đảm bảo an sinh xã hội. Quá trình chuyển đổi không chỉ là việc thay đổi luật lệ từ trên xuống, mà còn là việc thúc đẩy một văn hóa khởi nghiệp, kinh doanh sâu rộng trong xã hội, đồng thời thiết lập và bảo vệ các quyền tài sản, quyền tự chủ kinh doanh một cách rõ ràng, đáng tin cậy, qua đó khuyến khích các chủ thể kinh doanh tham gia vào nền kinh tế chính thức, tức là di chuyển từ “vùng xám” sang “vùng sáng”.
Ở tầm chiến lược, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đã đề ra các chủ trương, chính sách tổng thể, đồng bộ, bao gồm các chính sách “hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh”. Đi vào cụ thể, Nghị quyết 68 nêu rõ các việc cần làm để thúc đẩy quá trình này, bao gồm rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh doanh cá thể, thu hẹp tối đa sự chênh lệch, tạo mọi điều kiện thuận lợi về tổ chức quản trị và chế độ tài chính, kế toán nhằm khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp.
Nghị quyết 68 cũng nhấn mạnh việc đẩy mạnh số hóa, minh bạch hóa, đơn giản hóa, dễ tuân thủ và dễ thực hiện đối với chế độ kế toán, thuế, bảo hiểm... nhằm khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, đồng thời xóa bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh chậm nhất vào năm 2026. Cùng với đó là cung cấp miễn phí các nền tảng số, phần mềm kế toán dùng chung, dịch vụ tư vấn pháp lý, đào tạo về quản trị doanh nghiệp, kế toán, thuế, nhân sự, pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Một điểm quan trọng khác là thực hiện hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, thúc đẩy khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, ưu tiên chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh là thanh niên, phụ nữ, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và các mô hình kinh doanh bao trùm, tạo tác động xã hội.
Về phía các hộ kinh doanh, cũng cần nhận thấy rằng việc chuyển đổi sang doanh nghiệp mang lại nhiều lợi ích thiết thực về pháp lý, tài chính, khả năng phát triển và uy tín kinh doanh. Chuyển đổi thành doanh nghiệp, đặc biệt là công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, mang lại tư cách pháp nhân rõ ràng, được pháp luật công nhận, tạo niềm tin với đối tác, ngân hàng, cơ quan nhà nước, và thuận lợi hơn trong giải quyết tranh chấp, ký hợp đồng.
Doanh nghiệp cũng dễ dàng mở rộng quy mô và tiếp cận thị trường hơn, có thể tuyển dụng nhân sự quy mô lớn, mở chi nhánh, văn phòng đại diện, tăng vốn điều lệ, kêu gọi đầu tư, và tham gia đấu thầu, ký hợp đồng lớn, đặc biệt là với đối tác nước ngoài hoặc cơ quan Nhà nước.
Về tài chính, doanh nghiệp dễ dàng mở tài khoản ngân hàng doanh nghiệp, vay vốn, và phát hành hóa đơn tài chính. Họ cũng có cơ hội nhận các chính sách ưu đãi thuế hoặc hỗ trợ từ nhà nước như miễn giảm thuế, hỗ trợ khởi nghiệp, tiếp cận quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… Quản lý tài chính và kế toán cũng trở nên bài bản hơn với hệ thống sổ sách kế toán, báo cáo tài chính rõ ràng. Điều này giúp kiểm soát chi phí, lợi nhuận và lập kế hoạch kinh doanh hiệu quả hơn, từ đó thuận lợi hơn khi làm việc với cơ quan thuế, nhà đầu tư, kiểm toán.
Uy tín thương hiệu cũng được nâng cao khi tên thương hiệu được bảo hộ rộng rãi hơn. Doanh nghiệp có khả năng đăng ký nhãn hiệu, tên miền và ký hợp đồng dài hạn, được xã hội nhìn nhận chuyên nghiệp và đáng tin cậy hơn, đặc biệt là trong các ngành cần chứng minh năng lực kỹ thuật, tài chính.
Một lợi ích quan trọng khác là giảm rủi ro pháp lý cá nhân. Hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản cá nhân, trong khi doanh nghiệp như công ty TNHH chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp. Điều này giúp bảo vệ tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp khi gặp rủi ro….
Tóm lại, chuyển từ hộ kinh doanh sang doanh nghiệp là một bước tiến tự nhiên khi quy mô kinh doanh mở rộng. Tuy đi kèm với một số thủ tục và nghĩa vụ pháp lý mới, nhưng đổi lại, việc chuyển đổi giúp doanh nghiệp tăng trưởng, giảm rủi ro, tiếp cận cơ hội lớn hơn, và nâng tầm uy tín trên thương trường. Việc chính thức hóa các hộ kinh doanh không chỉ là một yêu cầu tất yếu để hội nhập và phát triển, mà còn là cơ hội lớn để các chủ thể kinh doanh Việt Nam vươn lên, đóng góp mạnh mẽ hơn vào sự thịnh vượng chung của đất nước.
Tác giả: Ông Nguyễn Quốc Việt là tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế và các khoa học xã hội, Đại học Tổng hợp Kassel, Đức; hiện là chuyên gia chính sách công, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!