Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nêu cơ chế đào tạo lao động thích ứng thị trường
(Dân trí) - Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung nhấn mạnh đến cơ chế chính sách đào tạo, đào tạo lại... để đảm bảo cho người lao động có kỹ năng thích ứng với thị trường lao động.
Chất vấn tại hội trường Quốc hội, đại biểu Mai Hồng Hải (đoàn TP Hải Phòng) cho rằng, phát triển nguồn nhân lực được xác định là 1 trong 3 khâu đột phá để phát triển kinh tế - xã hội.
Nhưng đến nay, chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá là khá thấp, lao động qua đào tạo đạt 64,5% nhưng có bằng cấp và chứng chỉ thì mới đạt 24,5%, nghĩa là cứ 4 lao động thì chỉ có 1 người thực sự coi là có nghề.
“Trong khi đó, các trường nghề không tuyển sinh được, sinh viên đại học ra trường khó tìm việc, doanh nghiệp khó tuyển dụng lao động. Vậy xin Bộ trưởng cho biết đâu là nguyên nhân, giải pháp nào để giải quyết những vấn đề trên”, đại biểu Mai Hồng Hải gửi câu hỏi đến Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, liên quan đến vấn đề nhân lực, ông đã có một vài lần đề cập trong các phiên chất vấn.
Về ý kiến của đại biểu, theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, trong những năm qua, việc bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực luôn được Đảng, Nhà nước, các địa phương và các cấp ngành quan tâm. Lực lượng qua đào tạo trên 60%, tuy nhiên số có chứng chỉ như đại biểu nêu ra còn thấp là hoàn toàn đúng.
Để khắc phục tình trạng trên, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, trong xu hướng các nước phát triển, tập trung để phát triển bao trùm và bền vững, đều tập trung vào 3 việc đó là: Tập trung bồi dưỡng kỹ năng cho người lao động; Tạo việc làm thỏa đáng; Quan tâm đến an sinh bền vững, trong đó có 2 trụ cột là bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.
“Đối với Việt Nam, vừa qua chúng tôi đã tham mưu Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 24 để tập trung nâng cao chất lượng như đại biểu đã nói. Trong đó tập trung tranh thủ thời cơ dân số vàng; đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, nhất là nhân lực có tay nghề cao nhằm nâng cao tầm kỹ năng lao động Việt Nam, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nói.
Trên cơ sở đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội kiên trì tham mưu Chính phủ và Quốc hội đi theo hướng phát triển lực lượng lao động qua đào tạo, có bằng cấp chứng chỉ phù hợp thông lệ quốc tế. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất theo hướng đưa chỉ tiêu lực lượng lao động qua đào tạo có chứng chỉ trở thành một tiêu chí bắt buộc trong cả nhiệm kỳ 5 năm 2021-2026. Trong từng năm, phấn đấu mỗi năm tăng bình quân khoảng 4%. Như vậy, sau khi hết 5 năm thì tỷ lệ lao động có chứng chỉ đạt khoảng 40-45%. Như vậy, sẽ phù hợp với thông lệ quốc tế và tương đương mặt bằng chung các nước phát triển.
Tập trung vào việc tiếp tục triển khai có hiệu quả các cơ chế chính sách phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, tăng cường chuyển đổi số, đào tạo trực tuyến, chú trọng đào tạo và đào tạo lại thường xuyên lực lượng lao động. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng hiệu quả, đảm bảo cho người lao động có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp, ngoại ngữ để thích ứng với thị trường lao động.
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng nhấn mạnh các vấn đề như tăng cường làm tốt công tác dự báo, cung cầu và đào tạo theo nhu cầu; chỉ đạo rà soát sắp xếp quy hoạch lại hệ thống giáo dục nghề nghiệp với mục tiêu theo hướng mở và chất lượng cao.
“Tăng cường kết nối chặt chẽ 3 nhà gồm nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp. Khuyến khích công nhận, tuyển dụng, sử dụng trả tiền công, tiền lương cho người lao động dựa trên kỹ năng và năng lực hành nghề; tiến tới chúng ta tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo hoặc có chứng chỉ trong các doanh nghiệp và các doanh nghiệp không những tiếp nhận qua đào tạo, đồng thời đối với người lao động trong doanh nghiệp chưa được đào tạo thì chúng ta đào tạo lại”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nói thêm.
Đảm bảo quyền thoả thuận tiền lương cho người lao động
Chất vấn tại hội trường, đại biểu Trần Kim Yến (đoàn TP Hồ Chí Minh) cho biết, trong kỳ họp trước, bà có đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu về luật tiền lương tối thiểu.
Theo đại biểu, tại các hội nghị đại diện cho giới chủ sử dụng lao động và đại diện cho người lao động đều đưa ra những lý lẽ, những con số hết sức thuyết phục để thuyết phục Hội đồng Tiền lương Quốc gia ban hành một mức lương phù hợp. Đại biểu cho biết, trong thời gian đó, ngoài thị trường giá cả đã bắt đầu nhảy múa theo hướng xu hướng tăng hơn. Khi Chính phủ ban hành được nghị định thì mức lương, mức thu nhập của người công nhân, người lao động cũng có tăng hơn nhưng thực tế mức sống của họ vẫn vậy, do lương có tăng nhưng giá cả cũng đã tăng theo rất nhiều.
“Nhiều công nhân, người lao động đã nói với tôi rằng mồ hôi, sức lao động của công nhân, người lao động bỏ ra để tạo ra sản phẩm cho xã hội được đưa ra mặc cả, trả giá, cò kè bớt một thêm hai. Tôi đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết quan điểm của mình”, đại biểu đoàn TP Hồ Chí Minh nói.
Trước khi trả lời câu hỏi trên, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay, cách đây 2 kỳ họp đại biểu đã nêu ra vấn đề này. Quá trình sửa đổi Bộ luật Lao động cũng nhận được khuyến cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). “Cho đến giờ này, chúng tôi rất lắng nghe và rất cầu Thị. Đây cũng là khuyến cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) trong thời gian vừa qua. Vì vậy, quá trình tiến hành xây dựng Bộ luật Lao động cũng như thực thi Nghị quyết 27 về chính sách cải cách chính sách tiền lương của Trung ương, chúng tôi đã nghiên cứu rất kỹ vấn đề này”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, Nghị quyết 27 của Trung ương về cải cách chính sách tiền lương đã chỉ rất rõ tiền lương là chi phí của sức lao động và được chi trả phù hợp với giá cả, sức lao động của thị trường. “Bám sát quan điểm này, chúng tôi đã cụ thể hóa trong Bộ luật Lao động. Tiếp thu ý kiến của đại biểu, cũng như trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương tại Nghị quyết 27 và khuyến cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nói.
Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, trong quá trình xây dựng Bộ luật Lao động chúng ta đã cụ thể hóa vấn đề này trong chương về tiền lương tối thiểu vùng trong Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019, đã quy định rất rõ về tiền lương tối thiểu vùng cho cả 4 vùng, trên cơ sở đảm bảo sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động.
“Vì vậy, những nội dung về tiền lương tối thiểu đã được cụ thể hóa bằng pháp luật. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ tiếp tục thể chế hóa trong chính sách thực hiện đề án cải cách chính sách tiền lương”, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay.