Tổng quan bệnh Ghẻ
Ghẻ (scabies, gale) là bệnh ngoài da khá phổ biến, do một loại côn trùng ký sinh trên da gây nên, có tên là Sarcoptes scabiei, Hominis (cái ghẻ), có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite), thường hay gặp vào mùa xuân – hè.
Bệnh ghẻ tồn tại hơn 2500 năm, xuất hiện từ thời La Mã cổ đại, đến nay ước tính có khoảng 300 triệu trường hợp trên toàn thế giới bị ghẻ mỗi năm, nó thường xuất hiện ở những vùng dân cư đông đúc, nhà ở chật hẹp, thiếu nước sinh hoạt hoặc những nước kém phát triển, điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém.
Ghẻ là bệnh không gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh, tuy nhiên nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của bản thân người bệnh và những người xung quanh, đặc biệt nó sẽ gây ra các biến chứng như: nhiễm trùng, chàm hóa, viêm cầu thận cấp.
Nguyên nhân bệnh Ghẻ
Tác nhân gây bệnh ghẻ là do ký sinh trùng ghẻ (tên khoa học là Sarcoptes scabiei hominis)gây nên.
Bệnh do ghẻ cái gây nên là chủ yếu, ghẻ đực không gây bệnh vì nó chết sau khi giao hợp. Ghẻ cái có nhiều loài, có loài gây bệnh ở người, có loại gây bệnh ở súc vật như ngựa, cừu, dê, lợn, chó, mèo, thỏ, chuột v.v...Tuy nhiên ghẻ cái gây bệnh ghẻ cho súc vật có thể truyền bệnh cho người.
Một số đặc điểm nhận dạng cái ghẻ:
Cái ghẻ có hình bầu dục, đường kính khoảng 0,25 mm, rất nhỏ, khó có thể nhìn thấy bằng mắt thường, nếu nhìn thấy cũng chỉ thấy nó như một điểm trắng di động, nó có 8 chân, 2 đôi chân trước có ống giác, 2 đôi chân sau có lông tơ, đầu có vòi để hút thức ăn.
Cái ghẻ thường ký sinh ở lớp sừng của thượng bì, ban đêm thì đào hang còn ban ngày đẻ trứng, mỗi ngày ghẻ cái đẻ 1-5 trứng, 72-96 giờ nở thành ấu trùng, sau 5-6 lần lột xác (trong vòng 20-25 ngày) trở thành cái ghẻ trưởng thành, rồi bò ra khỏi hang, giao hợp và tiếp tục đào hầm, đẻ trứng mới.
Chu kỳ toàn bộ cuộc sống cái ghẻ ở thượng bị kéo dài 30 ngày và có khoảng <10% trứng đậu thành cái ghẻ trưởng thành.
Quá trình tác động của ghẻ cái lên da của người:
Ghẻ cái tiết ra enzyme proteases làm suy giảm tầng lớp sừng của người, do đó ghẻ cái có thể di chuyển qua các lớp trên cùng của da dễ dàng hơn. Nguồn thức ăn của ghẻ là các mô bị phân hủy nhưng nó không ăn máu. Nó thường thông qua các lớp biểu bì, tạo ra các tổn thương hang và để lại sau phân của chúng.
Ghẻ cái sinh sôi nảy nở rất nhanh, trong điều kiện thuận lợi một con ghẻ cái, sau 3 tháng có thể có một dòng họ 150 triệu con, ghẻ cái cũng chết sau khi đã đẻ hết số trứng của mình.
Cơ chế bệnh sinh:
Vào ban đêm ghẻ cái bò ra khỏi hang tìm ghẻ đực, đây là lúc ngứa nhất, dễ lây truyền nhất, vì ngứa phải gãi làm vương vãi cái ghẻ ra quần áo, giường chiếu... Cái ghẻ sẽ chết sau khi rời vật chủ 4 ngày.
Triệu chứng bệnh Ghẻ
Dấu hiệu bệnh ghẻ ở người thường thấy nhất khi bị ghẻ là: ngứa, nhiều nhất là về đêm, lúc đi ngủ do cái ghẻ di chuyển gây kích thích đầu dây thần kinh cảm giác ở da và một phần do độc tố ghẻ cái tiết ra khi đào hang. Ngứa gãi gây nhiễm khuẩn....và có thể có sốt trong một số trường hợp.
Người tiếp xúc lần đầu tiên với ký sinh trùng ghẻ, trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa, có thể do ghẻ mới xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại nên chưa thấy ngứa, điều đó lý giải tại sao một số bệnh nhân có tổn thương ghẻ thực sự mà hoàn toàn chưa thấy ngứa. Những người bị tái nhiễm ghẻ thì xuất hiện ngứa dữ dội ngay từ khi cái ghẻ xâm nhập vào da.
Sau khi ngứa, xuất hiện các tổn thương đặc hiệu là luống ghẻ và mụn nước hay còn gọi là mụn trai và đường hang.
Mụn nước trong bệnh ghẻ thường nhỏ bằng hạt tấm, nhìn giống như hạt ngọc (nếu chưa bị bội nhiễm), không bao giờ mọc thành chùm, mọc rải rác đặc biệt là các vùng da non.
Luống ghẻ xuất hiện do cái ghẻ đào ở lớp sừng là 1 đường cong ngoằn ngoèo hình chữ chi, dài 2-3 cm, gờ cao hơn mặt da, màu trắng đục hay trắng xám, không khớp với hằn da, ở đầu đường hang có mụn nước đường kính khoảng 1-2mm và đó cũng chính là nơi cư trú của cái ghẻ.
Vị trí tổn thương thường là: lòng bàn tay, kẽ ngón tay, ngấn cổ tay, mu tay, bờ trước nách, quanh rốn, mông, 2 chân và ghẻ ít khi có tổn thương ở đầu mặt, ở nam giới hầu như đều có tổn thương ở qui đầu, thân dương vật, phụ nữ còn bị ở núm vú, trẻ em còn bị ở gót chân, lòng bàn chân.
Ghẻ gây ngứa dữ dội do đó bệnh nhân gãi rất mạnh gây nên các tổn thương, bao gồm: vết xước gãi, vết trợt, sẩn, vẩy tiết, mụn nước, mụn mủ, chốc nhọt..,sẹo thâm màu, bạc màu, tạo nên hình ảnh được ví như bức tranh "khảm xà cừ", "hình hoa gấm".
Đường lây truyền bệnh Ghẻ
Bệnh ghẻ có lây không?
Bệnh ghẻ ở người là 1 bệnh lây truyền mang tính chất gia đình vì nếu một thành viên trong nhà bị bệnh ghẻ thì khả năng những người khác trong gia đình sẽ dễ mắc bệnh theo.
Ghẻ lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp giữa da với da của người bị ghẻ. Trong một số trường hợp, một người có thể bị ghẻ khi dùng chung quần áo, khăn tắm hoặc bộ đồ giường với người bị ghẻ.
Đối tượng nguy cơ bệnh Ghẻ
Bất kỳ đối tượng nào, dân tộc nào, dù nam hay nữ, dù già hay trẻ đều có thể mắc bệnh ghẻ.Tuy nhiên đối tượng dễ bị nhất là những người thường xuyên tiếp xúc, sinh hoạt chung như: ngủ chung, dùng chung màn, khăn, chiếu, gối với người bị ghẻ.
Phòng ngừa bệnh Ghẻ
Vệ sinh nhà ở và vệ sinh cá nhân hàng ngày sạch sẽ.
Tránh tiếp xúc trực tiếp giữa da với da hoặc tiếp xúc với đồ dùng của những người bị ghẻ.
Những người có nguy cơ (tiếp xúc gần gũi) nên được chăm sóc y tế để điều trị phòng ngừa.
Các biện pháp chẩn đoán bệnh Ghẻ
- Chẩn đoán dựa vào các đặc điểm lâm sàng: Ngứa, thường là ngứa nhiều về đêm, nổi mụn nước ở những vùng da non, mọc riêng lẻ, không thành chùm.
- Chẩn đoán dựa vào tổn thương ở các vị trí đặc hiệu như lòng bàn tay, kẽ ngón tay, ngấn cổ tay, mu tay, bờ trước nách, quanh rốn, mông,...
- Dựa vào dịch tễ: gia đình, đơn vị , tập thể nhiều người bị.
- Soi tươi: dùng curette nạo mụn nước ở đầu luống ghẻ hoặc nạo luống ghẻ, đưa lên lam kính, nhỏ một giọt KOH 10%, soi kính hiển vi thấy trứng hoặc cái ghẻ.
- Dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.
- Xét nghiệm máu: thấy IgE tăng cao.
- Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh ghẻ là tìm thấy cái ghẻ, tuy nhiên không phải khi nào cũng tìm thấy cái ghẻ và các sản phẩm của chúng do vậy chẩn đoán dựa vào các đặc điểm lâm sàng và tính chất dịch tễ là rất quan trọng.
Các biện pháp điều trị bệnh Ghẻ
Cách trị bệnh ghẻ ở người tương đối dễ dàng, chỉ cần diệt hết cái ghẻ và phòng tránh không bị tái nhiễm. Hiện nay, hầu hết những phương pháp điều trị đều cho đáp ứng tốt, bệnh có thể khỏi hoàn toàn nhưng đôi khi cũng cần điều trị đợt hai cách một thời gian sau đó khoảng từ 2 - 7 ngày để chắc chắn điều trị dứt điểm bệnh ghẻ này.
Nguyên tắc điều trị ghẻ ở người:
Cần phát hiện sớm và điều trị sớm khi chưa có biến chứng.
Điều trị tất cả những người bị ghẻ sống chung cùng một lúc.
Nên bôi thuốc vào buổi tối trước khi đi ngủ: bôi một lớp mỏng từ cổ đến chân, bôi 2-3 đêm liên tục mới tắm.
Hạn chế, tốt nhất là nên tránh kỳ cọ cạo gãi vì nó có thể gây viêm da, nhiễm khuẩn.
Không được bôi các thuốc hại da như DDT, 666, Volphatox,lá cơi....
Cần bôi liên tục 10- 15 ngày; theo dõi sau 10-15 ngày vì có thể có đợt trứng mới nở.
Điều trị kết hợp với phòng bệnh chống lây lan. Giặt, phơi quần áo, chăn màn, đồ dùng của người bệnh cách xa với đồ dùng của những người xung quanh.
Cách ly người bệnh, không dùng chung quần áo, ngủ chung.
Các phương pháp điều trị ghẻ:
Đối với ghẻ đơn giản
Bôi một trong các thuốc:
Dung dịch DEP: bôi ngày 2-3 lần, thuốc này không được dùng cho trẻ sơ sinh và không bôi vào bộ phận sinh dục.
Lindane: xịt thuốc vào toàn bộ da từ cổ xuống chân. Sau 8-12 giờ tắm rửa thay quần áo, xịt thuốc 2 lần/tuần. Thuốc chữa ghẻ này tương tự như dung dịch DEP không dùng cho trẻ nhỏ vì nó gây độc với thần kinh.
Benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate): bôi, xịt 2 lần/ngày.
Eurax (crotamintan) 10%: 6-10 giờ bôi một lần. Thuốc an toàn có thể bôi vào bộ phận sinh dục và dùng được cho trẻ sơ sinh, nó có tác dụng chống ngứa và diệt cái ghẻ.
Permethrin cream 5% (Elimite) là thuốc điều trị ghẻ ít độc tính nhất, có thể dùng cho trẻ em và phụ nữ có thai.
Trường hợp bị ghẻ vảy: Phối hợp Ivermectin uống với thuốc bôi ngoài tại chỗ, nó có hiệu quả ở hầu hết các trường hợp ghẻ điển hình. Lưu ý Trẻ em dưới 5 tuổi hoặc ít hơn 15kg không được điều trị bằng ivermectin.
Theo đông y, nên thường xuyên tắm với nước của cây lá đắng, ba gạc, xoan, xà cừ, cúc tần.