Dấu mốc lịch sử chính quyền địa phương hai cấp
Ngày 16/6 sẽ trở thành một dấu mốc nổi bật trong lịch sử nước ta khi vào sáng cùng ngày, với tỷ lệ 100% đại biểu có mặt biểu quyết tán thành, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi).
Theo đó, kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện trong cả nước từ ngày 1/7, và xác lập mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã) thống nhất trong cả nước.
Trong lịch sử nhân loại và nhìn trên bình diện xã hội, hiểu theo nghĩa rộng, khái niệm “chính quyền” đề cập đến các mô hình tổ chức quyền lực khác nhau, cùng với các cơ chế và phương tiện, được sử dụng để duy trì một trật tự quản lý nào đó.
Ở xã hội hiện đại, theo cách hiểu khái quát và phổ biến, khái niệm “chính quyền” hàm ý các cơ quan quyền lực nhà nước, cùng với quy trình thể chế, cả chính thức và phi chính thức, được thiết lập và vận hành để duy trì trật tự công, phục vụ và bảo vệ lợi ích công thông qua việc thúc đẩy các hành động có tính tập thể, hay còn gọi là chính sách công.

Trụ sở UBND TPHCM (Ảnh minh họa: Hải Long)
Mô hình tổ chức chính quyền ở mỗi quốc gia là sản phẩm của tiến trình phát triển lâu dài, chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi những đặc thù về lịch sử, truyền thống văn hóa, chính trị và hành chính, cũng như trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống chính quyền có thể được phân chia thành nhiều cấp theo các mô hình khác nhau: chính quyền liên bang/bang/địa phương; hoặc chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm, cũng như nhiều quốc gia khác ở châu Á, Việt Nam là quốc gia đặc trưng bởi mô hình nhà nước đơn nhất, một hình thức tổ chức nhà nước với lãnh thổ quốc gia được chia thành các đơn vị hành chính và quyền lực tập trung thuộc về chính quyền trung ương. Nói cách khác, hệ thống chính quyền được tổ chức theo trật tự thứ bậc, phân chia giữa cấp trung ương và địa phương, trong đó quyền lực nhà nước được thiết lập và vận hành theo nguyên tắc “tập trung và thống nhất”.
Trong ý niệm vững chắc của người dân Việt Nam, hệ thống chính quyền luôn được tổ chức thành nhiều cấp. Bên cạnh chính quyền trung ương, dù tên gọi có thể thay đổi theo thời gian, chính quyền địa phương thường gắn với các đơn vị hành chính cấp tỉnh - huyện - xã. Nhiều người dân cũng đã quen với việc chính quyền trung ương không chỉ kiểm soát các hoạt động đối nội và đối ngoại của nhà nước, mà còn có thể kiểm soát hầu hết mọi hoạt động của các chính quyền địa phương.
Vì thế, ngày 16/6 thực sự trở thành một dấu mốc nổi bật trong lịch sử khi chuyển mô hình chính quyền địa phương 3 cấp sang 2 cấp: cấp tỉnh và cấp xã.
Đặt trong bối cảnh hiện nay và hướng về tương lai, việc kết thúc sứ mệnh vẻ vang của đơn vị hành chính cấp huyện - vốn đã hình thành và duy trì qua nhiều giai đoạn - là để giảm bớt tầng nấc trung gian, hướng đến hệ thống chính quyền gần dân hơn, linh hoạt hơn, bám sát nhu cầu và gia tăng khả năng phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Sự chuyển đổi mạnh mẽ tiếp theo là đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các chính quyền địa phương. Theo điều 13 và điều 14 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi), các chính quyền địa phương được gia tăng quyền tự chủ trong việc ra quyết định, tổ chức thi hành và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; phân cấp, ủy quyền thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền, ngoại trừ những trường hợp Luật, Nghị quyết của Quốc hội quy định không được phân cấp, ủy quyền.
Với các quy định nêu trên, chúng ta không chỉ xác lập mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, mà quan trọng hơn là xác lập nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn, thực hiện triệt để nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Chắc chắn rằng hành lang pháp lý này sẽ vun đắp và củng cố ý thức, khả năng chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các chính quyền địa phương.
Một điểm đáng chú ý nữa là để gia tăng khả năng hoạt động linh hoạt, hiệu quả, khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Luật đã phân định rõ thẩm quyền giữa tập thể UBND và cá nhân Chủ tịch UBND. Theo các quy định mới, trong những tình huống cần thiết, Chủ tịch UBND cấp tỉnh cũng có thể trực tiếp chỉ đạo, điều hành việc giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc cấp mình và của UBND, Chủ tịch UBND cấp xã.
Có thể thấy, việc gia tăng thẩm quyền và phạm vi hoạt động cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh là một giải pháp sẽ tạo đột phá trong việc thúc đẩy năng lực và tiến độ giải quyết công việc, thủ tục hành chính của hệ thống chính quyền địa phương.
Chúng ta có những cơ sở để kỳ vọng rằng những điều chỉnh nêu trên sẽ góp phần then chốt để giải quyết căn bản tình trạng đình trệ, ùn tắc, kém hiệu quả trong hoạt động của một số cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương - vấn đề nan giải mà người dân, doanh nghiệp luôn đề cập đến trong các phản ánh và kiến nghị bấy lâu nay.
Nhìn lại quá trình phát triển của nhân loại thì có thể thấy, cho dù cách tiếp cận và quan điểm có thể khác nhau nhưng một bộ máy chính quyền tốt thường gắn với các đặc điểm: i) tổ chức bộ máy tinh gọn; ii) có khả năng đạt được các mục đích chung; iii) đủ năng lực và kỹ năng để quản lý cộng đồng xã hội. Cũng có nghĩa, đổi mới hệ thống chính quyền sẽ thành công khi chúng ta thu gọn được các bộ phận cấu thành, giảm được chi phí hoạt động trong khi liên tục cải thiện chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Ở bất cứ quốc gia nào thì chính quyền cũng là chủ thể đảm nhiệm vai trò then chốt, trọng yếu nhất trong cấu trúc quản trị quốc gia. Vì thế, những cải cách, đổi mới liên quan đến hệ thống chính quyền luôn có ý nghĩa đặc biệt. Với những thay đổi mạnh mẽ lần này, chúng ta có cơ sở để kỳ vọng về tác động sâu sắc và lâu dài đến năng lực và chất lượng hoạt động của cấu trúc quản trị địa phương ở nước ta trong tương lai.
Tác giả: Ông Nguyễn Văn Đáng có bằng tiến sĩ Quản trị công và chính sách từ trường Quản lý nhà nước Mark O. Hatfield, Đại học Portland State, Mỹ. Hiện ông công tác tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!