Cuộc đời bắt đầu từ những ước mơ
Gần đây khi tôi chia sẻ về hành trình đạp xe xuyên Việt của mình, chắc nhiều bạn thầm nghĩ đây là chuyện điên rồ của một ông già 61 tuổi. Đặc biệt ông ấy vốn chỉ là một nhà khoa học, một giảng viên ở Mỹ, không thực sự am hiểu địa hình, hoàn cảnh thực tế cho chuyến đi dài ở Việt Nam.
Trong nhiều năm, sự vận động lớn nhất mỗi ngày của tôi là lên giảng đường và về nhà. Gen nhà tôi rất xấu. Ba tôi qua đời năm 45 tuổi vì đột quỵ, mẹ qua đời năm 62 tuổi vì tiểu đường và ung thư gan, còn anh trai vừa qua đời năm 63 tuổi vì tim yếu. Năm nay tôi 61 tuổi và tôi có ước mơ thực hiện hành trình đạp xe xuyên Việt. Đó không phải là một quyết định dễ dàng, tôi đã phải dành rất nhiều thời gian để tập trung rèn luyện sức khỏe, bù lấp vào các điểm yếu thể trạng do công việc và có yếu tố di truyền của mình.
Cuối cùng, tôi hoàn thành chuyến đi xuyên Việt an toàn, khỏe mạnh và có được rất nhiều trải nghiệm tuyệt vời dọc dài đất nước. Tất cả vì tôi có ước mơ. Chúng ta đều có ước mơ. Để hiện thực ước mơ, chúng ta phải đi qua vô số những nỗi lo sợ. Nhưng bao nhiêu người dám làm?!
Nhìn lại cuộc đời tôi là chuỗi những ước mơ và nỗ lực thực hiện các ước mơ đó. Xuất thân trong một gia đình nghèo, nhà có 9 anh em. Năm tôi 11 tuổi, ba bị liệt nửa người nên tôi phải đi bán thuốc lá ở bến xe lam Gò Vấp, sau đó về Lái Thiêu (Bình Dương) cày mướn, làm nông thuê để phụ lo cho gia đình. Mỗi bữa gia đình tôi chỉ ăn cơm độn khoai mì (sắn). Đói. Không có ăn nên tôi không dám mơ cao sang. Tôi chỉ ước ao có một đĩa cơm tấm đầy ắp thịt và được ăn một mình hết đĩa cơm đó mà không phải chia cho anh em.
Ước mơ vốn không có giới hạn, nhưng kiến thức và trải nghiệm của bạn sẽ mở ra các biên độ của giấc mơ.
Tôi đến Mỹ năm 19 tuổi, không người thân, không ngôn ngữ, không hiểu văn hóa. Bản năng thôi thúc tôi, nhắc nhở tôi "phải sống, phải tồn tại". Tôi cũng ghi khắc sâu vào tâm khảm câu nói của ba: "Học để thoát nghèo con ạ!".
Khi được theo học năm cuối trung học tại Mỹ, tôi thấy mình bắt đầu có cơ hội. Hiểu câu dặn dò của ba, tôi tập trung hoàn toàn vào chuyện học. Nhưng điều này thực sự không hề đơn giản với một đứa trẻ không thân thích ở xứ người. Tôi nhận thức rất rõ muốn tồn tại và phát triển ở đất nước này phải giỏi gấp 2 - 3 lần so với người bản xứ cùng trang lứa.
Từ đây, ước mơ của tôi bắt đầu tăng lên thêm một bậc. Tôi muốn vào đại học. Chỉ có học mới giúp mở mang kiến thức, và trải nghiệm giúp mình mở ra ước mơ. Nếu không học có lẽ mãi mãi tôi cũng chỉ mơ có đủ ăn đủ mặc.
Vì vốn liếng tiếng Anh ít ỏi nên tôi không đủ tiêu chuẩn vào đại học. May thay các thầy cô ở trường trung học viết thỉnh nguyện thư một trường đại học gần nhà ba mẹ nuôi sau khi họ từ chối hồ sơ. Tôi được nhận vào học thử một năm kèm điều kiện phải chứng minh được năng lực trong năm học đầu tiên.
Vào được đại học rồi, tôi tìm việc làm thêm để có đủ trang trải và đứng trước hai sự lựa chọn: (1) Làm việc khó ít tiền nhưng có cơ hội học hỏi (như làm việc trong phòng thí nghiệm); (2) Làm việc dễ lại có nhiều tiền (như làm việc ở nhà hàng). Đa số sinh viên chọn cái dễ, còn tôi vì muốn có cơ hội học hỏi nên tôi chọn cái khó. Tôi nghĩ, vào làm việc tại phòng thí nghiệm sẽ học được điều gì đó. Sau đó tôi có cơ hội làm việc tại phòng thí nghiệm của GS. Mark Gordon (học trò của John Pople, người nhận giải Nobel năm 1998). Trong khi sinh viên thường chọn bạn bè cùng trang lứa thì tôi chọn ở xung quanh nghiên cứu sinh, tiến sĩ, những người giỏi hơn mình nhiều bậc. Tôi nỗ lực học hỏi từ tương tác với họ.
Sau bốn năm đại học, tôi ra trường với bằng cử nhân hóa học hạng giỏi, cùng các bằng phụ, Toán, Vật lý, công nghệ thông tin, và sém cầm thêm bằng xác suất thống kê, cùng 4 bài nghiên cứu tương đương một luận án tiến sĩ. Một ước mơ mới mở ra với tôi: Đi học Cao học!
Lúc ở Việt Nam, tôi có nghĩ đến ước mơ này không?! Thưa không.
Lúc mới đến Mỹ, có ước mơ này không?! Thưa, không.
Sau bốn năm đại học, vì tôi biết nghiên cứu nên mới mơ học cao học. Thầy tôi, GS. Mark Gordon khuyên: "Em hãy chọn một sư phụ giỏi chứ không nên chọn trường". Và lời khuyên này đã mở ra hành trình nghiên cứu khoa học của tôi.
Vào cao học, ước mơ của tôi lại lên một tầm cao mới.
Học cao học phải trải qua rất nhiều thử thách, nhưng cuối hành trình ấy tôi lại có thêm nhiều sự lựa chọn. Hoặc đi làm cho công ty, hoặc đi dạy. Người thầy hướng dẫn của tôi, GS. Andy McCammon (học trò của GS. Martin Karplus, Nobel Prize 2013) khuyên nên theo con đường học thuật, trở thành giáo sư khi trên tay tôi đang cầm lá thư mời nhận việc nghiên cứu cho doanh nghiệp với lương cao. Tôi đắn đo lắm, không tự tin với chính mình nhưng thầy đưa ra một nhận định ngắn gọn: "Em ra làm doanh nghiệp là một mất mát lớn cho khoa học và giáo dục Mỹ". Tôi nhìn ông và hỏi: "Thầy nghĩ thế à?". Ông chỉ gật đầu.
Tôi run lắm, nhưng tôi tin thầy tôi. Sau đó, tôi được nhận làm giáo sư của Đại học Utah (Mỹ).
Ngày đầu tiên đến Mỹ vào năm 1980, tôi chỉ có một bộ áo quần. Đến cuối năm 1990, tôi cầm trên tay tấm bằng tiến sĩ danh giá, được nhận học bổng nhà khoa học trẻ tài năng bình chọn bởi National Science Foundation (Mỹ). Năm 1992, tôi trở thành giáo sư phụ giảng tại Đại học Utah (có Khoa hóa được xếp hạng 30 - 40 trên toàn cầu); năm 1994 được bình chọn bởi NSF (Quỹ khoa học quốc gia Mỹ) là một trong những nhà khoa học trẻ có tiềm năng nhất nước Mỹ.
Sau khi trở thành giáo sư đại học, có phòng thí nghiệm riêng, có học trò, một ước mơ mới lại mở ra với tôi, chính là nghiên cứu khoa học và có những công trình nghiên cứu khoa học giá trị.
Ước mơ vốn không có giới hạn, nhưng ước mơ của bạn sẽ bị giới hạn bởi kiến thức và trải nghiệm bạn có. Chỉ khi bạn bước khỏi một tầng, mới mở ra tầng cao hơn. Cứ như vậy, leo lên càng cao thì ước mơ càng xa hơn và tầm nhìn cuộc đời sẽ dài hạn hơn. Ước mơ của tôi không còn là đĩa cơm tấm và thoát nghèo. Nó đã khác xa nhiều rồi. Việc học đã mở ra cho tôi những chân trời mới.
Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Bill Gates, Steve Job, tôi, và các bạn, ai cũng chỉ có mỗi ngày 24h. Sự khác biệt nếu có chỉ là cách chúng ta sử dụng 24h đó như thế nào. Tất cả đều nằm trong sự lựa chọn của bạn. Chúng ta cần dành mỗi ngày 8h để ngủ, sử dụng 2/3 thời gian còn lại như thế nào sẽ ảnh hưởng đến tất cả những gì sau này của bạn.
Cuộc đời là chuỗi sự lựa chọn. Chọn cái mốc này, ngã rẽ này, sẽ dẫn ta đến những cột mốc tiếp theo. Và thường thì chúng ta đi tiếp chứ ít khi quay lại.
Trong hành trình đạp xe xuyên Việt, từ Lũng Cú đến Đất Mũi, tôi phải đối diện với những con đèo cao và các nguy hiểm khó lường. Hành trình cuộc sống của chúng ta cũng vậy, rất nhiều khó khăn, thử thách về cơm áo gạo tiền, sự nghiệp, tình cảm…
Vậy các bạn cần chuẩn bị những gì, nhất là khi tuổi đời còn trẻ? Hãy dám ước mơ và hành động. Trong không gian an toàn, chúng ta sẽ khó mà học hỏi được gì. Bước ra khỏi không gian đó, chúng ta bắt đầu học hỏi, trải nghiệm cái mới, thu thập kinh nghiệm cuộc sống. Không phải tất cả kinh nghiệm, trải nghiệm đều hạnh phúc. Cuộc đời có thành công và thất bại. Quan trọng là chúng ta học được gì từ những thất bại đó, khi lặp lại sẽ làm tốt hơn.
Rất nhiều bài học chúng ta chỉ có thể học được ở ngoài kia, khi đang nỗ lực cho giấc mơ của mình. Ví dụ như tôi, ở tuổi 61, đã học thêm nhiều về lịch sử, địa lý, văn hóa, ẩm thực, phong cách sống khi đạp xe xuyên Việt. Có tỉnh phía Bắc, đi qua thấy họ gặt lúa non, tôi xuống hỏi mới biết họ gặt lúa này để làm cốm. Đó là những bài học thực tế chúng ta khó học được ở đâu. Và tôi sẽ không bao giờ quên những bài học đó!
Trải nghiệm sẽ cho bạn sự tự tin. Bạn học bao nhiêu lý thuyết trong trường lớp vẫn chỉ là kiến thức trong bạn. Cho đến khi bạn trải nghiệm, bạn sử dụng nó, thì mới thực sự là học. Lời khuyên của tôi là, khi còn đi học nên đi tìm những câu hỏi để biết cuộc đời cần gì. Hãy mở biên độ ước mơ của mình rộng ra và suy nghĩ về việc làm gì với 24 giờ của mình.
Tìm cơ hội trải nghiệm, biết mình có thể sai và ứng dụng trong cuộc sống. Khi bước ra khỏi vùng an toàn mới đến vùng phát triển. Một ngày nào đó quay đầu nhìn lại, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình đáng sống và giá trị.
Tác giả: Giáo sư Trương Nguyện Thành có bằng Tiến sĩ Hóa tính toán tại Đại học Minnesota năm 1990. Ông nhận học bổng hậu tiến sĩ từ National Science Foundation. Năm 2002, ông trở thành giáo sư chính giảng dạy môn Hóa học ở Đại học Utah. Năm 2017, ông tạm nghỉ và về Việt Nam làm Hiệu phó Đại học Hoa Sen, rồi Hiệu phó tại Đại học Văn Lang ở TP HCM. Hiện ông dành thời gian tư vấn cho các tổ chức giáo dục.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!