Chuyên gia Bùi Trinh:

Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung: Với VN, "ăn hôi" không phải là đối sách bền vững

(Dân trí) - Theo chuyên gia kinh tế Bùi Trinh, chiến tranh thương mại Trung - Mỹ có thể làm tăng GDP một chút nhưng nguồn lực thực sự thông qua tiết kiệm (saving) càng giảm. Nếu chỉ nghĩ đến “ăn hôi” thì đó không phải là một đối sách hay và bền vững

Có rất nhiều quan điểm, cách đánh giá về tác động của cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đối với các nước liên quan, với Việt Nam, theo các chuyên gia kinh tế, vấn đề này có tác động hai chiều, vừa là cơ hội cho Việt Nam mở cửa đón nhà đầu tư, nhưng vừa là thách thức, lời cảnh tỉnh cho những doanh nghiệp "cơ hội", kinh doanh gian lận.

Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung: Với VN, ăn hôi không phải là đối sách bền vững - 1

TS Bùi Trinh khẳng định: Trung Quốc đã chuẩn bị cho việc đối đầu thương mại với Mỹ từ nhiều năm và việc doanh nghiệp nước này chuyển vốn sang nước khác cũng là cách phân hóa rủi ro

Phóng viên Dân Trí có cuộc trao đổi ngắn với TS Bùi Trinh, chuyên gia kinh tế tại Việt Nam để đánh giá thực tế cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc và bài học cho Việt Nam.

Thưa ông, chiến tranh thương mại Mỹ và Trung Quốc có tác động xấu đến xu hướng thương mại toàn cầu và đối với Việt Nam, việc này có những tác động cả thuận lẫn nghịch, xin ông cho biết Việt Nam nên làm gì để xử lý vấn đề này?

- Thực tế, từ năm 2010 trở về trước, dòng vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam khá thấp. Trong top 10 quốc gia đầu tư vào Việt Nam, hầu như không có tên của Trung Quốc.

Nhưng gió đã đổi chiều, kể từ năm 2011 trở lại đây, vốn FDI Trung Quốc vào Việt Nam có sự thay đổi đáng kể. FDI của Trung Quốc tại Việt Nam liên tục vươn lên trong vị trí xếp hạng, tăng về quy mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực, mở rộng về địa bàn.

Điển hình là từ năm 2015 trở lại đây, cùng với việc Việt Nam lên kế hoạch tham gia Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Trung Quốc thường nằm trong tốp 10 quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam, điều này là để đón đầu cơ hội thâm nhập thị trường béo bở TPP và hoặc sau này là thị trường theo Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Như vậy, theo ông, Trung Quốc đã có những bước tính toán từ nhiều năm trước để chủ động đương đầu với thách thức thương mại từ Mỹ?

- Tôi cho rằng, dường như Trung Quốc cũng đã đón đầu được cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ.

Tại Việt Nam, tôi thấy rõ trong số 38 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2019, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 588,9 triệu USD, chiếm 24,1% tổng vốn đăng ký cấp mới. Tiếp đến là Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh FDI nói chung và FDI từ Trung Quốc nói riêng không mang lại lợi ích gì thực sự cho nền kinh tế và người dân Việt Nam. Nhưng dường như người ta chỉ quan tâm đến tăng trưởng GDP, nhưng khi tăng trưởng GDP dựa vào FDI thì tăng trưởng về luồng tiền ra thông qua chi trả sở hữu cao hơn tăng trưởng GDP nhiều.

Tôi cho rằng càng mê cuồng tăng trưởng GDP thì nguồn lực của nền kinh tế càng yếu đi. Chiến tranh thương mại Trung - Mỹ có thể làm tăng GDP một chút nhưng nguồn lực thực sự thông qua tiết kiệm (saving) càng giảm. Nếu không thay đổi mà chỉ nghĩ đến “ăn hôi” khi ai đó chiến tranh với nhau không phải là một đối sách hay và bền vững

Hiện có thông tin (dù chưa được kiểm chứng) doanh nghiệp Việt nhập nguyên liệu, hàng hóa từ Trung Quốc về nước rồi thay nhãn mác, xuất sang các nước khác, ngay cả với Mỹ, ông có cảnh báo gì về hình thức kinh doanh này?

- Thói làm ăn này dù ít hay nhiều thì cũng cần thay đổi, bởi làm như vậy phía Việt Nam thực chất không được lợi gì nhiều, hàm lượng giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị của sản phẩm rất thấp; thành tích xuất khẩu kiểu này thực chất là xuất khẩu hộ nước khác, các doanh nghiệp Việt ở giữa ăn một chút ít.

Và người Mỹ không phải là tay "mơ". Nếu họ quay sang trừng phạt thương mại Việt Nam thì lợi bất cập hại. Kiểu làm ăn “tôi trên hết” là kiều làm ăn chẳng hay ho gì về mặt kinh tế cũng như về mặt con người.

Vốn Trung Quốc đổ vào nhiều, càng làm lo ngại về quá trìnhchuyển giao công nghệ cũ, chất lượng kém, theo ông chúng ta cần làm gì để tránh Việt Nam trở thành điểm đến của doanh nghiệp xả thải từ Trung Quốc?

- Điều đầu tiên cần thoát khỏi bệnh thành tích và lấy lợi ích thực sự đối với nền kinh tế trong nước làm trọng, từ đó thay đổi cách thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng với tình trạng lấy cái tôi làm trọng thì rất khó minh bạch và thay đổi.

Các nhà đầu tư Trung Quốc chọn Việt Nam phải chăng vì chiến lược của Chính phủ nước này hiện nay có phần thay đổi, đó là khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để thu lợi từ sở hữu, bù đắp cho những khó khăn ở trong nước nhằm làm tăng tổng thu nhập Quốc gia (GNI) và cuối cùng là làm tăng tiết kiệm trong nước.

Cho đến nay, thực trạng kinh tế Trung Quốc đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng với một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục trong nhiều năm, khiến nhiều người quên rằng tăng trưởng GDP không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.

Trong 1 thập kỷ qua, Trung Quốc tiến hành cải tổ mạnh mẽ nền kinh tế, thay đổi cách thức tăng trưởng, loại bỏ các cách thức tăng trưởng cũ, lạc hậu để hướng đến ứng dụng công nghệ hóa, ông nhìn nhận thế nào về nền kinh tế nước này trước nguy cơ cuộc chiến thương mại lâu dài?

- Những ngờ vực về sức mạnh thực sự của nền kinh tế Trung Quốc xuất hiện ngày càng nhiều, khi hiệu quả sản xuất ngày càng đi xuống và điều này đồng nghĩa với tỷ lệ giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất của Trung Quốc ngày càng giảm.

Như vậy, tăng trưởng của Trung Quốc không thể đạt tốc độ như đã công bố, thậm chí thấp hơn số công bố khá nhiều. Hơn nữa kinh tế Trung Quốc là một nền kinh tế “công xưởng” mà ở đó phía cung dựa vào nhập khẩu khá nhiều và phía cầu dựa vào xuất khẩu. Khi nhập khẩu giảm cũng có nghĩa sản xuất giảm sút và phía cầu xuất khẩu giảm cũng tạo vòng xoáy cho việc sụt giảm GDP.

Khi cố gắng vượt qua khó khăn nội tại về kinh tế, Trung Quốc càng đẩy mạnh đầu tư, nhưng sự cố gắng này dường như đã tới hạn do nợ công ngày càng có xu hướng tăng cao.

Trân trọng cảm ơn ông!

An Linh

(Thực hiện)