Những yếu tố nào giúp nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học phát triển?
(Dân trí) - GS.TSKH Nguyễn Đình Đức - nhà khoa học Việt Nam có tên trong danh sách 100.000 nhà khoa học hàng đầu trên thế giới năm 2020 chia sẻ về phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trong trường ĐH.
Trong đó, điều mà ông trăn trở nhất là chuyện "hao hụt" nhân tài trong nhóm nghiên cứu mạnh do các em rời đi làm việc ở các nhóm nghiên cứu của các trường đại học khác hoặc ra làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài có chế độ đãi ngộ tốt hơn.
"Để một em sinh viên và nghiên cứu sinh để thành tài được các em phải nghiên cứu từ năm 2 đại học cho đến khi ra trường là mất 5-7 năm. Thế mà bây giờ các em ra doanh nghiệp hoặc nơi khác làm thì thực sự chúng tôi thấy rất bùi ngùi, đáng tiếc. Nếu như đầu tư cho con người tốt, thỏa đáng hơn cho thầy và trò thì chúng tôi sẽ còn đạt được kết quả còn tốt hơn nữa", GS Đức tâm sự.
Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh phải có khả năng thu hút
GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức - Trưởng Ban Đào tạo ĐHQGHN, Giám đốc Chương trình Thạc sĩ Kỹ thuật hạ tầng trường ĐH Việt Nhật - ĐHQGHN đã thăng hạng vượt bậc từ vị trí 51.083 (top 100.000 nhà khoa học thế giới năm 2019) lên xếp hạng 5.798 thế giới (top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới năm 2020) do Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố.
GS Đức kể lại câu chuyện ông gây dựng một nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến, thành lập cách đây hơn 10 năm. Từ năm 2009 khi thầy là Phó Hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ. Ông đã lên lớp trực tiếp lựa chọn những em sinh viên giỏi nhất để dìu dắt.
Lúc đầu từ một vài em nay đã có 30-40 em, thu hút rất nhiều tiến sĩ, đào tạo các em thành tài. Trong nhóm, từ em học khá hay trung bình vào nhóm thầy Đức đều thành xuất sắc do đã khơi dậy được đam mê, sự cần cù chịu khó trong các em.
Đến nay, nhóm đã đào tạo gần 20 tiến sĩ, trong đó TS Trần Văn Tùng và TS Trần Quốc Quân đã xuất sắc mang về 2 giải thưởng Nguyễn Văn Đạo - giải thưởng danh giá nhất dành cho các bạn trẻ trong lĩnh vực cơ học.
Sau 10 năm, nhóm ngày càng khẳng định uy tín trong giới khoa học, nhóm có gần 300 công trình khoa học với hơn 150 bài báo quốc tế đăng tải trên các tạp chí ISI. Nhóm nghiên cứu là môi trường hợp tác nhiều trường nổi tiếng trên thế giới, tạo môi trường gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học từ đó đào tạo nhân tài vừa có tính tất yếu, vừa là mục tiêu, phương thực phát triển của một đại học nghiên cứu.
Khi được hỏi về các yếu tố giúp phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học, GS Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh: "Để nhóm nghiên cứu thành công trước hết phải có người trưởng nhóm có uy tín, có năng lực, có khả năng thu hút các bạn trẻ đồng thời có năng lực đưa nhóm nghiên cứu của mình tiếp cận với chuẩn mực quốc tế.
Nghiên cứu của nhóm có được thế giới quan tâm hay không, có được các đồng nghiệp trong nước và quốc tế dõi theo, trích dẫn kết quả hay không thì định hướng nghiên cứu rất quan trọng. Trong đó, vai trò dẫn dắt của người trưởng nhóm và định hướng là một trong những yếu tố cốt lõi.
Bên cạnh đó, nhóm cần có các thành viên chủ chốt tốt là các tiến sĩ trẻ, các em sinh viên xuất sắc, các nghiên cứu sinh… Để nhóm nghiên cứu phát triển đạt tầm cỡ quốc tế thì phải tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp cận được với chuẩn mực quốc tế.
Thứ tư, nhóm nghiên cứu mạnh cần có sự hỗ trợ của nhà trường và Nhà nước hỗ trợ điều kiện làm việc".
GS Đức dẫn chứng câu chuyện của chính nhóm mình: "Cách đây 10 năm thầy trò chưa có nơi làm việc phải làm trong thí nghiệm hoặc ngồi ở giảng đường hay quán nước vì không có chỗ làm việc nhưng từ khi nhà trường tạo điều kiện có chỗ làm việc đầy đủ trang thiết bị thì chúng tôi đã thu hút được nhiều nghiên cứu sinh, sinh viên tham gia. Các em có thể làm việc ngày đêm, ngoài giờ học tập.
Nghiên cứu về vật liệu kết cấu tiên tiến của nhóm thì không thể làm việc tay không mà phải có trang thiết bị rất hiện đại. Các kết quả nghiên cứu về công nghệ nano, chống thấm… nhờ công nghệ hiện đại thì nhóm mới có nhiều phát hiện mới, thuyết phục được các doanh nghiệp".
Chưa có cơ chế đãi ngộ và thu hút nhân tài đủ mạnh…
Nhà khoa học trăn trở gửi gắm mong mỏi các nhóm nghiên cứu mạnh được tạo điều kiện hơn nữa để vươn cao, vươn xa. Bởi theo ông, hiện việc đầu tư cho con người và cơ sở vật chất cho các nhóm nghiên cứu còn rất hạn chế. Nhóm nghiên cứu trong những năm vừa rồi đã xem như một cấu thành trong cơ cấu tổ chức trong trường đại học, trong khoa, trong bộ môn…; trưởng nhóm nghiên cứu có chế độ hỗ trợ... Tuy nhiên, GS Đức cho rằng, đối với các nhóm nghiên cứu mạnh, Nhà nước nên có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa để chi cho con người, bởi hiện nay sức hút của các doanh nghiệp cũng như sự cạnh tranh của trường đại học tư rất lớn.
"Chúng tôi đào tạo nhiều nhân tài nhưng nhiều nhân tài cũng đi làm việc ở các nhóm nghiên cứu của các trường đại học khác và ra làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Điều đó rất tốt nhưng về phía trường đại học phải có đội ngũ kế cận, mà muốn vậy phải có điều kiện hỗ trợ các em yên tâm nghiên cứu.
Một em sinh viên và nghiên cứu sinh để thành tài được các em phải nghiên cứu từ năm 2 đại học cho đến khi ra trường là mất 5-7 năm. Thế mà bây giờ các em ra doanh nghiệp hoặc nơi khác làm thì thực sự chúng tôi thấy rất bùi ngùi, đáng tiếc. Nếu như đầu tư cho con người tốt, thỏa đáng hơn cho thầy và trò thì chúng tôi sẽ còn đạt được kết quả còn tốt hơn nữa", GS Đức tâm sự.
Thêm nữa, về cơ chế chính sách, ngoài những nhóm nghiên cứu đẳng cấp quốc tế cần tạo điều kiện cơ chế mời các nhà khoa học đầu ngành, thu hút nhiều tiến sĩ bạn trẻ nước khác từ các nước đến nhóm làm việc. Hiện nay cơ chế của Nhà nước thì chỉ cho đến thực tập.
GS Đức cũng chia sẻ trăn trở về cơ chế đãi ngộ cho nhóm nghiên cứu mạnh chưa có, nếu có điều kiện đó thì chắc chắn nhóm nghiên cứu sẽ có những kết quả tuyệt vời, tầm cỡ quốc tế, có tính chất dẫn dắt khoa học quốc gia. Ông cho rằng, nên có sự hỗ trợ khởi nghiệp, đầu tư rủi ro, kết hợp với các doanh nghiệp thì chắc chắn nhiều nhóm nghiên cứu mạnh thực sự sẽ trở thành những trung tâm nghiên cứu xuất sắc".
GS Đức nhấn mạnh, việc kết nối giữa nhóm nghiên cứu và doanh nghiệp là mô hình của 4 nhà: Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp, nhà khoa học. Hiện nhà khoa học đã rất tích cực nhưng trong khuôn khổ có hạn cho nên cần các chính sách của cơ sở giáo dục đào tạo và nhà nước. Chẳng hạn, Nhà nước có thể đầu tư quỹ đầu tư mạo hiểm với giá trị lớn hơn.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là đi cùng những chính sách ấy phải có chế độ thu hút nhân tài. Bởi vì hiện nay, cạnh tranh thu hút chất xám rất lớn. Ở đâu có nhân tài, ở đó có cạnh tranh. Nguồn lực cho doanh nghiệp, nguồn lực cho đổi mới sáng tạo là con người. Đầu tư cho con người phải thỏa đáng hơn nữa, phải mạnh mẽ hơn nữa.
Ví dụ như Hàn Quốc trong những năm 1960 để có Viện KIST (Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc - Korea Institute of Science and Technology). Viện trả lương cho nhà khoa học ở mức tương đương với lương của những người trung lưu, tuy chỉ bằng 1/4 mức lương họ có thể nhận được ở Mỹ (vì hầu hết các nhà khoa học đều từ Mỹ về); nhưng mức lương này cao gấp 3 lần mức cao nhất mà các giáo sư đại học trong nước nhận được nên thu hút được nhiều nhân tài về làm việc.
Nhờ đó, Viện đã trở thành chìa khóa then chốt thúc đẩy Hàn Quốc phát triển những năm 60-70 nhờ những đóng góp rất lớn cho khoa học. Đó là bài học mà Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm.
Đâu phải giáo sư nào cũng gắn với khởi nghiệp
"Hình ảnh người giáo sư nghiên cứu khoa học cơ bản có kinh tế không tốt có ảnh hưởng không trong việc thu hút nhân tài?", PV đặt câu hỏi.
GS Đức đáp: "Hiện nay trong những năm gần đây mức thu nhập việc làm của nhà khoa học trong khối tư nhân và ngoài nhà nước có tăng đáng kể, có sự khác biệt rất lớn so với cơ quan Nhà nước. Đây là thực tế mà nếu chúng ta không có cải thiện chính sách thì khối cơ quan Nhà nước sẽ khó thu hút nhân tài.
Đề cập đến nhà khoa học làm nghiên cứu cơ bản có thu nhập thấp hơn nhà khoa học làm nghiên cứu ứng dụng, theo GS Đức đối với một trường đại học, ngay cả giáo sư chỉ có công bố về khoa học cơ bản thôi đi đó cũng là đóng góp rất lớn cho khoa học rồi.
"Chúng ta hãy nhìn nhận như trường ĐH Chicago, trường ĐH Harvard và các trường quốc tế khác, đâu phải giáo sư nào cũng gắn với khởi nghiệp… có rất nhiều giáo sư Toán học, Vật lý là những giáo sư đã có những nghiên cứu cơ bản mà từ đó, có tác động lâu dài thậm chí vài chục năm thậm chí hàng thế kỷ sau (chẳng hạn phát minh của Albert Einstein trong lĩnh vực y học và vật lý)".
"Đã là nhà khoa học trong trường đại học thì phải có sáng tạo nhưng tôi rất mong muốn thu nhập và đời sống của đội ngũ giáo sư, giảng viên cao hơn. Nếu chúng ta yêu cầu đội ngũ khoa học của chúng ta chất lượng đẳng cấp với thế giới thì thu nhập cho đội ngũ cán bộ, nhà khoa học rất đáng suy nghĩ cải thiện", GS.TSKH Nguyễn Hữu Đức nhấn mạnh thêm.