Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ quy định xóa lao động cưỡng bức
(Dân trí) - Với 458/460 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (tương đương 94,82%), sáng 8/6, Quốc hội chính thức thông qua Nghị quyết về gia nhập công ước xóa bỏ lao động cưỡng bức.
Đó là Công ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế.
Với kết quả này, Việt Nam sẽ áp dụng trực tiếp toàn bộ nội dung của Công ước số 105.
Quốc hội giao Thủ tướng Chính phủ trách nhiệm tổ chức thực hiện Công ước, phê duyệt và chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan ở trung ương và địa phương triển khai kế hoạch thực hiện.
Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan hoàn thành thủ tục đối ngoại về việc gia nhập Công ước số 105 và thông báo thời điểm Công ước số 105 có hiệu lực đối với Việt Nam.
Quốc hội, UB Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các UB của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện nghị quyết về gia nhập Công ước số 105 này.
Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về việc gia nhập, Chủ nhiệm UB Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu khái quát, các ý kiến đại biểu Quốc hội đều nhất trí về sự cần thiết gia nhập Công ước này và cho rằng việc gia nhập Công ước phù hợp với đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước.
Việc gia nhập Công ước số 105 vào thời điểm này là thận trọng, phù hợp với quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, vì lợi ích quốc gia, thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, không chấp nhận cưỡng bức bóc lột lao động.
Đồng thời, các ý kiến đại biểu cũng cho rằng các nội dung của Công ước số 105 không trái với các quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UB Thường vụ Quốc hội.
Có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị Chính phủ nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết về hành vi lao động cưỡng bức do đây là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần triển khai thực hiện Công ước số 105 có hiệu quả.
UB Thường vụ Quốc hội cho rằng, Bộ luật Lao động năm 2019 có nhiều quy định cụ thể nhằm phòng, chống lao động cưỡng bức tương ứng với các trường hợp theo hướng dẫn của Tổ chức Lao động quốc tế.
Cụ thể, Điều 17 Bộ luật quy định nghiêm cấm người sử dụng lao động: giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động; yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động; buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động.
Điều 35 quy định người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần nêu lý do mà chỉ cần báo trước cho người sử dụng lao động. Trong một số trường hợp, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngay lập tức mà không cần báo trước như trường hợp không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động.
Điều 102 quy định người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động trong một số trường hợp theo quy định. Người lao động có quyền được biết lý do khấu trừ tiền lương của mình và mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng của người lao động. Điều 107 quy định người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi có sự đồng ý của người lao động.
Điều 124 quy định về các hình thức xử lý kỷ luật lao động chỉ bao gồm: khiển trách; kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng; cách chức; sa thải. Người sử dụng lao động không được tự đặt ra những hình thức xử lý kỷ luật khác ngoài 4 hình thức trên như hình thức cưỡng bước lao động…
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng đã có quy định về Tội cưỡng bức lao động (tại Điều 297); quy định về Tội mua bán người (Điều 150); Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151) đối với các trường hợp chuyển giao hoặc tiếp nhận người để cưỡng bức lao động. Việc bổ sung quy định tội danh mới trong Bộ luật Hình sự được coi là bước tiến mới trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động cũng như quyết tâm của Việt Nam trong việc loại bỏ lao động cưỡng bức.
Bên cạnh đó, năm 2020, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 28 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, quy định về chế tài hành chính đối với các hành vi vi phạm cụ thể nêu trên.
Vấn đề khác, Chủ nhiệm UB Đối ngoại cho biết, có ý kiến đại biểu đề nghị cân nhắc quy định về lao động của phạm nhân trong trại giam tại điểm d khoản 2 Điều 27, khoản 1 Điều 33 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Cơ quan báo cáo giải trình, theo Công ước số 29 của Tổ chức Lao động quốc tế về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, lao động của phạm nhân là một trong năm trường hợp ngoại lệ không coi là lao động cưỡng bức và theo Công ước số 29, nghĩa vụ lao động của phạm nhân là kết quả, hệ lụy xuất phát từ phán quyết của tòa án.
Nghĩa vụ lao động của phạm nhân không nhất thiết phải được quyết định tại bản án của Tòa án mà có thể theo quy định của pháp luật sau khi có bản án kết tội của tòa án, trong trường hợp của nước ta là Luật Thi hành án hình sự.
Về vấn đề này, theo chuyên gia của Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam, phạm nhân là những người có quyết định thi hành án của tòa án; việc lao động của phạm nhân trong trại giam được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự và đặt dưới sự giám sát, quản lý của trại giam, đồng thời, họ không bị chuyển nhượng hoặc bị đặt dưới quyền sử dụng của tư nhân.
Với 3 điều kiện này, Chủ nhiệm UB Đối ngoại khẳng định, lao động của phạm nhân là trường hợp ngoại lệ, không bị coi là lao động cưỡng bức theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 2 của Công ước số 29.
Phương Thảo