1. Dòng sự kiện:
  2. Máy bay quân sự rơi ở Bình Định
  3. Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV

Tầm nhìn đổi mới của nhà lãnh đạo tài năng Võ Văn Kiệt

Ông Sáu Dân - bí danh của đồng chí Võ Văn Kiệt, sau này nhân dân vẫn hay gọi ông một cách thân mật và trìu mến như vậy. Gần dân, hiểu dân và trọng dân. Điều đó tạo cho ông niềm tin và dũng khí để ông trở thành “tướng xé rào”.

Đồng chí Võ Văn Kiệt (tên thật là Phan Văn Hòa) tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, từng bước trưởng thành - từ cán bộ cơ sở, huyện, tỉnh, Xứ ủy viên Nam bộ, Ủy viên Trung ương Cục Miền Nam, rồi tham gia Bộ Chính trị, tháng 3/1988 được cử làm quyền Chủ tịch, sau đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Thủ tướng Chính phủ - trên cương vị nào ông cũng có những cống hiến nổi bật. Đặc biệt, những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được trong thời kỳ đầu đổi mới gắn liền với những cống hiến quan trọng của đồng chí Võ Văn Kiệt.

 

Tư duy chính trị đổi mới

 

Ông Sáu Dân - bí danh của đồng chí Võ Văn Kiệt, sau này nhân dân vẫn hay gọi ông một cách thân mật và trìu mến như vậy. Gần dân, hiểu dân và trọng dân. Điều đó tạo cho ông niềm tin và dũng khí để ông trở thành “tướng xé rào” ngay từ trong thời kỳ chỉ đạo đấu tranh vũ trang ở Khu IX sau Hiệp định Pari. Ông tuyên bố: “Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân. Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả”. Thực tế đã xác nhận ông đã suy nghĩ và hành động đúng.

 

Thủ tướng Võ văn Kiệt đi thị sát cảng Quy Nhơn cuối năm 1995. Ảnh: Tư Liệu

Thủ tướng Võ văn Kiệt đi thị sát cảng Quy Nhơn cuối năm 1995. Ảnh: Tư Liệu

 

Tư duy chính trị của Thủ tướng Võ Văn Kiệt toàn diện, sâu sắc, nhạy bén ở tầm chiến lược. Ông nung nấu tâm nguyện: Một dân tộc đã trải qua bao gian khổ, hy sinh, mất mát để giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, dân tộc ấy phải được sống hạnh phúc trong độc lập, tự do, được hưởng công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là cơ sở để hình thành một tư duy chính trị Võ Văn Kiệt nhạy bén trước bước ngoặt của lịch sử dân tộc: Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan vỡ, Việt Nam mất đi chỗ dựa vật chất và tinh thần to lớn (đã từng có) vào giữa lúc khó khăn nhất: Bị bao vây, cô lập cả về kinh tế và chính trị.

 

Trong bối cảnh mới, nếu muốn phát triển đất nước, Việt Nam phải có tư duy chính trị mới, phải biết tạo dựng những mối quan hệ mới, tìm ra những đối tác mới. Theo ông, trong tình hình mới, Việt Nam nhất thiết phải thay chỗ dựa - vào Liên Xô và “phe” xã hội chủ nghĩa trước kia - bằng cách dựa - vào việc mở rộng và khai thác các mối quan hệ quốc tế mới.

 

Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người chủ động xúc tiến nhiều hoạt động mở rộng cửa để Việt Nam đi ra thế giới, trước hết là với các nước láng giềng Đông Nam Á, đưa ra thông điệp về một nước Việt Nam đổi mới, sẵn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy với tất cả các nước vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển, ông xúc tiến khẩn trương việc gia nhập ASEAN, vận động Mỹ xóa bỏ cấm vận, tiến tới bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ.

 

Kết quả của những nỗ lực đó là năm 1992, Mỹ bỏ cấm vận, năm 1994 Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, năm 1995 Việt Nam gia nhập ASEAN... Năm 1997, khi đồng chí Võ Văn Kiệt rời chức vụ Thủ tướng, Việt Nam đã huy động được 8,5 tỷ đô la Mỹ ODA và 28 tỷ đô la Mỹ đầu tư nước ngoài, mức tăng trưởng hàng năm là 8%. Những thành tựu đó gắn liền với tư duy chính trị nhạy bén và hành động ứng biến năng động của Võ Văn Kiệt.

 

Rời chức vụ Thủ tướng, ông có điều kiện khảo sát thực tế nhiều hơn, trao đổi rộng rãi hơn với các chính khách, chuyên gia cả trong và ngoài nước. Ông nhìn nhận tình hình rộng hơn và góp ý với Đảng nhiều hơn. Ông lưu ý với Đảng: “Đừng để người nghèo bị gạt ra bên lề của sự phát triển”. Ông thừa nhận những hoạt động từ thiện diễn ra khá rầm rộ, nhưng từ thiện không thể thay thế cho chính sách.

 

Ông nói:“Chăm lo cho người nghèo hiện nay không đơn giản chỉ là thực hiện một cam kết có tính lịch sử, mà còn là bảo vệ tôn chỉ, mục đích của một Đảng cách mạng luôn nhận mình đứng về phía nhân dân”, vì vậy, “phải có những chính sách cốt lõi để giải quyết căn cơ vấn đề dân nghèo”. Ông đề nghị nghiên cứu, tham khảo cách làm của các quốc gia phát triển. Sau nhiều lần điều chỉnh, người lao động, người nghèo đã được hưởng một chế độ phúc lợi khá cao, nhờ đó tạo ra được một xã hội an sinh, ổn định để phát triển.

 

Tư duy kinh tế đổi mới

 

Những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ trước, khi nền kinh tế nước ta đang trong khủng hoảng, 3,5 triệu dân thành phố thiếu đói. Trên cương vị người lãnh đạo cao nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh, mệnh lệnh tối cao đối với ông lúc đó là “cứu đói cho dân, cứu nguy cho nền kinh tế thành phố”. Một lần nữa ông lại “xé rào”, vượt qua cơ chế quan liêu, bao cấp, cho phép thí điểm cách làm ăn mới trong sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối... từ đó thổi bùng luồng sinh khí mới, tạo đà cho Thành phố Hồ Chí Minh bước vào một thời kỳ phát triển năng động, góp phần không nhỏ làm thay đổi tư duy kinh tế, tạo cơ sở bước đầu cho sự hình thành đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI. Theo ông, mức độ đúng đắn của chính sách phải được xem xét trên hiệu quả thực tế, phải lấy mức sống được cải thiện của nhân dân và sự phát triển của đất nước làm tiêu chí chứ không phải theo những điều “cấm kỵ” trừu tượng.

 

Đồng chí Võ Văn Kiệt đảm nhiệm cương vị Thủ tướng khi kinh tế - xã hội đất nước đang khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát phi mã, có lúc lên tới 774%; tư duy kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn còn dai dẳng, tư duy đổi mới chưa được thật thông suốt trong chỉ đạo và thực hiện. Ông đã cùng tập thể lãnh đạo tìm tòi đưa ra nhiều chính sách có tính đột phá: Xóa bỏ chỉ tiêu pháp lệnh, trao quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh; thực hiện thương mại hóa tư liệu sản xuất, cho phép các doanh nghiệp lớn, cả trung ương và địa phương, được trực tiếp xuất nhập khẩu, chấm dứt tình trạng hai giá; xóa bỏ chế độ thu mua áp đặt với nông dân, bãi bỏ ngăn sông cấm chợ, thực hiện tự do lưu thông hàng hóa, chuyển dần nền kinh tế từ quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường, đưa đời sống kinh tế - xã hội của đất nước đi dần vào ổn định.

 

Đến nay những công trình lớn như: Thau chua, rửa phèn cho vùng Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, biến ruộng một vụ thành hai vụ, đưa năng suất lên cao nhất nước; công trình đường dây tải điện 500 KV Bắc - Nam, điều hòa lượng điện quốc gia; công trình đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài mở rộng cửa ngõ cho Thủ đô vẫn được gọi là những công trình mang “dấu ấn Võ Văn Kiệt”. Không phải ngay từ đầu ý tưởng xây dựng những công trình này đã có được sự đồng thuận, nhưng nhờ sự quyết đoán của ông, nhiều công trình đã hoàn thành trước thời hạn, ngay khi đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả.

 

Cho đến gần những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt vẫn lặn lội nhiều nơi trên miền đồng bằng sông Cửu Long trời nước mênh mông. Ông quên ăn quên ngủ, trăn trở, suy tư tìm kế sách để đồng bào có thể chung sống với lũ, làm chủ con nước và làm giàu trên vùng đất đai rộng lớn màu mỡ, trước sự đe dọa của thiên tai. Kế hoạch chuẩn bị đi thăm Hà Lan để tìm hiểu và học tập kinh nghiệm trị thủy của nước bạn để giúp dân, giúp nước chống lại nước biển dâng do sự nóng lên của trái đất là kế hoạch cuối cùng cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt chưa kịp thực hiện.

 

Ngày 11/6/2008, ông đã đột ngột vĩnh biệt chúng ta ra đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng nhân cách, phẩm chất và bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng kiên cường, người đảng viên cộng sản kiên trung, trọn đời hy sinh phấn đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân vẫn còn mãi với đất nước, với thời gian.

 

Theo Ngô Vương Anh

Báo Tin tức

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm