Bộ trưởng Tài nguyên: Thảm họa thiên tai, lỗi không phải ở thủy điện nhỏ!

Thái Anh

(Dân trí) - Bộ trưởng TN-MT Trần Hồng Hà cho biết, những khu vực xảy ra sạt lở đất kinh hoàng vừa qua, rừng đều phủ xanh. Thực tế, nếu không có hệ thống hồ chứa thuỷ điện tại đây, lũ lụt còn khủng khiếp hơn.

"Không có hồ chứa thủy điện, lũ lụt còn khủng khiếp hơn"

Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà lên tiếng tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội của Quốc hội sáng 5/11, sau rất nhiều ý kiến mổ xẻ, tranh luận về nguyên nhân thiên tai cấp tập gây hậu quả nặng nề tại miền Trung trong tháng 10.

Bộ trưởng Tài nguyên: Thảm họa thiên tai, lỗi không phải ở thủy điện nhỏ! - 1

Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trong phiên thảo luận tại Quốc hội.

Phát biểu trước Quốc hội, ông khẳng định đơn thuần cung cấp thông tin khách quan để Quốc hội có cái nhìn chính xác về hiện tượng mưa bão, lũ lụt, sạt lở nặng nề vừa xảy ra.

Bộ trưởng dẫn báo cáo từ UB quản lý rủi ro thiên tai của Liên hợp quốc với nhận định được nhấn mạnh, thế giới đang chịu tác động biến đổi khí hậu với cường độ và tần suất thiên tai xảy ra tăng gấp 4 lần trong 40 năm qua.

Việt Nam, đặc biệt, lại nằm trong vòng bão tây nam Thái Bình Dương, đứng thứ 7 trong số các quốc gia có rủi ro thiên tai cao nhất thế giới, là 1 trong 16 nước chịu tác động lớn nhất của hiện tượng khí hậu cực đoan.

Mặc dù thiên tai như vậy, Bộ trưởng khẳng định, nguy cơ tác động tới con người đã được “khắc chế”, kéo giảm. Theo Bộ trưởng, từ năm 2012, Bộ đã triển khai chương trình điều tra tai biến địa chất (tập trung vào khu vực miền Trung, Tây Nguyên) để cảnh báo được các nguy cơ sụt lún, lở đất.

Ông Trần Hồng Hà khái quát, thảm hoạ thiên tai tại miền Trung vừa qua cho thấy đây là kết quả của tổ hợp các dạng thái thiên tai cộng gộp lại. 4 cơn bão đến liên tiếp, trong đó bão số 9 mạnh nhất 20 năm qua. Hình thái áp thấp duy trì kéo dài ở miền Trung dẫn đến mưa lớn. Có những ngày ở Quảng Nam, lượng mưa tới 500mm/ngày.

“Điều đó có nghĩa là cả nửa mét nước trút xuống. Như vậy nghĩa là trời đổ nước xuống chứ không phải mưa nữa” - ông Trần Hồng Hà so sánh.

Về yếu tố địa chất, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường thông tin, ở những vùng sạt lở vừa qua, như Trạm 67 tại Phong Điền (Thừa Thiên Huế), tại Cha Lo, Đoàn 337 (Quảng Trị), Trà Leng, Trà Vân ở Nam Trà My (Quảng Nam), vùng sạt sở đều ở độ cao 300-900m.

Độ cao này, theo Bộ trưởng, ít liên quan đến vị trí thuỷ điện. Bộ trưởng Hà nhận định, những khu vực này đều nằm trong các đới đứt gãy địa chất. Đứt gãy tạo nên độ phong hóa 9-16 mét, tạo ra hình thái đá lẫn cát, sét, sỏi, độ gắn kết kém. Trạm 67, Đoàn 337… đều nằm ở khu vực có độ trượt, dốc lớn.

Bộ trưởng cho rằng, những khu vực này luôn tiềm ẩn sẵn hình thái đứt gãy, cộng với hiện tượng mưa trên 100mm thì đều có nguy cơ sạt lở, còn khi mưa đến 500mm thì làm tăng thêm trọng lượng, kéo sạt trượt mạnh mẽ.

“Những chuyện đã xảy ra, qua số liệu ban đầu có thể khẳng định vậy. Còn tại các vị trí sạt sở, rừng đều đã phủ xanh toàn bộ chứ không phải núi trống, đồi trọc” - Bộ trưởng quả quyết.

Theo ông, nếu muốn xét “lỗi” của thuỷ điện thì phải lật lại từ khâu quy hoạch, thiết kế. Ông Hà nhận định, nếu không có hệ thống hồ chứa thì tình hình lũ lụt vừa qua còn khủng khiếp hơn.

Bộ trưởng tuyên bố: “Lỗi không phải là thuỷ điện nhỏ. Ở Na Uy, đất nước này có vô số thuỷ điện nhỏ trên khắp lãnh thổ, đã mang lại hiệu quả khai thác tốt. Vậy thì vấn đề cần được nhìn nhận, đánh giá khách quan”.

Người đứng đầu ngành tài nguyên môi trường thông tin thêm, ngành đã dự báo trước 15 ngày về việc bão dồn dập, đã dự báo trước 2 ngày về khả năng mưa lớn trên diện rộng. Từ đó, các địa phương đã điều tiết, cắt lũ tốt. Nhìn chung, hệ thống hồ chứa tại các khu vực đã điều tiết được tới 39-70% lũ, đạt mục tiêu đề ra. Hạn chế ở đây, nếu có, chính là vì nhiều hồ chứa nhỏ chưa đảm bảo cắt lũ được 100%.

Về nghi vấn thiên tai nặng nề hơn khi mất diện tích rừng tự nhiên, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói, nếu không chuyển đổi rừng tự nhiên thì không thực hiện được các hoạt động kinh tế xã hội khác. Vấn đề là phải xác định được khu vực nào rừng nhất định cần giữ.

Về những ý kiến cảnh báo về thách thức, về sự khủng hoảng tư duy của các mô hình phát triển, theo Bộ trưởng, cần tích cực thể chế hoá Nghị quyết 24 của Trung ương, thể chế hoá mệnh lệnh về chuyển đổi mô hình sang tăng trưởng xanh, không hi sinh môi tường để đổi lấy kinh tế, thay đổi tư duy từ chế ngự tự nhiên chuyển sang với sống hài hoà với tự nhiên.

"Không thấy vai trò quản lý nhà nước"

Tranh luận lại với ý kiến của các Bộ trưởng, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TPHCM) nêu 2 điểm.

Trước hết, về sự liên quan giữa thiên tai với thực trạng mất rừng, đại biểu nhắc lại thông tin Bộ trưởng Nông nghiệp Nguyễn Xuân Cường cung cấp là mấy chục năm qua, cả nước đã tăng được diện tích rừng từ 9 triệu ha lên 14,5 triệu ha.

Đại biểu chưa thấy thuyết phục vì những con số này chưa phản ánh được tỷ lệ rừng tự nhiên và rừng trồng thay đổi thế nào, trong khi vai trò của 2 loại rừng khác nhau. Rừng trồng là vì mục đích kinh tế, cứ trồng 3 năm có thể khai thác 1 lần. Còn rừng tự nhiên, mục đích chủ yếu là để điều tiết nước, ngăn chặn lũ lụt, giữ đất.

Đại biểu đặt vấn đề, không phải ngẫu nhiên mà các nước phát triển đều kiên quyết bảo vệ rừng tự nhiên.

Về tác động của thuỷ điện với hiện tượng thời tiết cực đoan, ông Nghĩa nêu quan điểm, không “đổ lỗi” cho thuỷ điện nhưng thực tế, trên một lưu vực sông nếu có 3 thuỷ điện thì tác động khác mà làm tới 7-8 thuỷ điện thì lại khác, khó có thể kiểm soát như quy hoạch ban đầu. Việc bố sung quy hoạch thuỷ điện nhỏ, theo đại biểu, mới chính là chuyện cần bàn.

“Nếu chỉ đánh giá như các Bộ trưởng nói thì không thấy được vai trò quản lý nhà nước ở đâu” - ông Trương Trọng Nghĩa bình luận.