Tổng quan bệnh Hẹp thực quản
Thực quản là một bộ phận cấu thành của hệ thống ống tiêu hóa ở người, là phần ống dẫn thức ăn từ sau khoang miệng (vùng hầu họng) đến dạ dày, có chức năng vận chuyển thức ăn từ khoang miệng xuống dạ dày. Hẹp thực quản là tình trạng 1 đoạn nào đó của thực quản bị tổn thương gây chít hẹp lòng thực quản, dẫn tới cản trở sự lưu thông, vận chuyển thức ăn xuống dạ dày. Hậu quả là bệnh nhân bị khó nuốt dẫn tới ăn uống kém, thậm chí suy kiệt do không ăn uống được gì.
Hẹp thực quản có thể là bẩm sinh hoặc là biến chứng của 1 bệnh nào đó như viêm trào ngược dạ dày – thực quản (GERD), bỏng thực quản do hóa chất, tia xạ, khối u hoặc ung thư thực quản, di chứng sau chấn thương …
Trừ trường hợp là hậu quả của ung thư, nói chung hẹp thực quản là dạng tổn thương lành tính. Tuy nhiên nó lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng sống và sức khỏe của bệnh nhân. Nếu không được chẩn đoán và điều trị đúng thì bệnh nhân có thể bị suy dinh dưỡng nặng do không ăn uống được.
Nguyên nhân bệnh Hẹp thực quản
Hẹp thực quản lành tính là do có sự hình thành các mô sẹo ở trong thực quản.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây hẹp thực quản là do viêm trào ngược dạ dày – thực quản (GERD-Gastroesophageal reflux disease), do cơ thắt ở đoạn nối thực quản với dạ dày (tâm vị) hoạt động không hiệu quả dẫn tới việc acid từ dạ dày có thể bị trào ngược lên thực quản, ăn mòn niêm mạc thực quản dẫn tới viêm thực quản. Quá trình này sẽ tái đi tái lại nhiều lần gây tổn thương không phục hồi trên thực quản, hình thành nên các mô sẹo và cuối cùng gây hẹp thực quản.
Hẹp thực quản bẩm sinh là tình trạng thực quản bị tắc nghẽn trong quá trình phát triển thai kỳ. Bệnh thường xảy ra trong tuần thứ 4 của thai kỳ. Nguyên nhân gây bệnh còn chưa được làm rõ, gen có thể là một trong các yếu tố gây bệnh.
Hẹp thực quản do các bệnh lý ác tính gây nên: ung thư thực quản hoặc khối u ác tính từ bên ngoài thực quản chèn ép vào gây hẹp lòng thực quản
Bên cạnh đó, hẹp thực quản lành tính còn có thể là biến chứng của một số bệnh lý sau:
Do xạ trị vào ngực hoặc cổ
Bỏng thực quản do nuốt phải các chất có tính ăn mòn (ví dụ các dung dịch axit, kiềm, Javen hoặc các hóa chất tẩy rửa khác…).
Lưu sonde dạ dày dài ngày gây loét thực quản (thường gặp ở các bênh nhân bị hôn mê hoặc liệt toàn thân sau các tổn thương ở hệ thần kinh trung ương như tai biến mạch não hoặc chấn thương sọ não).
Chấn thương thực quản do nội soi gây ra.
Sau điều trị giãn tĩnh mạch thực quản
Do co thắt tâm vị
Triệu chứng bệnh Hẹp thực quản
Các biến chứng tiềm ẩn của hẹp thực quản lành tính gồm có:
Biến chứng tại chỗ của hẹp thực quản
Thức ăn đặc hoặc rắn có thể mắc lại ở đoạn thực quản bị hẹp 🡪 có thể gây nghẹt thở hoặc khó thở.
Do nôn và trào ngược thường xuyên 🡪 tăng nguy cơ viêm phổi do hít phải thức ăn
Bệnh nhân có thể bị tử vong đột ngột do phản xạ tim mạch hoặc ngạt thở do thức ăn trào ngược lọt vào khí quản gây tắc đường thở
Rò thực quản - khí quản.
Ung thư hoá.
Biến chứng toàn thân do hẹp thực quản gây nên
Suy dinh dưỡng do ăn kém hoặc không ăn được trong thời gian dài.
Tinh thần căng thẳng, buồn phiền, không muốn tiếp xúc với người khác, có trường hợp người bệnh còn bị trầm cảm.
Phòng ngừa bệnh Hẹp thực quản
Áp dụng các biện pháp thay đổi lối sống để kiểm soát GERD và giảm thiểu nguy cơ tiến triển thành hẹp thực quản. Kiểm soát các triệu chứng của GERD có thể làm giảm đáng kể nguy cơ bị hẹp thực quản. Làm theo hướng dẫn của bác sĩ về các lựa chọn chế độ ăn uống, dùng thuốc (nếu có) và lối sống có thể giảm thiểu việc dự phòng axit dạ dày lọt vào thực quản của bạn.
Không để các hóa chất gây ăn mòn (acid, bazơ…) lọt vào thực quản. Bảo vệ trẻ nhỏ bằng cách giữ tất cả các hóa chất gia dụng ăn mòn ở trong nhà ở ngoài tầm với của chúng.
Khám bệnh đúng hẹn để theo dõi các triệu chứng bệnh
Ăn chậm nhai kỹ
Uống thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ
Tạo thói quen sinh hoạt lành mạnh
Như vậy, hẹp thực quản là một căn bệnh khá nguy hiểm cho những ai mắc phải, gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Để phòng tránh bệnh tật, bạn nên tập thể dục thường xuyên, có chế độ ăn uống hợp lý, sinh hoạt lành mạnh để giảm thiểu tối đa nguy cơ mắc bệnh.
Các biện pháp chẩn đoán bệnh Hẹp thực quản
Chẩn đoán xác định: dựa vào các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của hẹp thực quản:
Khó nuốt, nuốt nghẹn: thường xảy ra đột ngột, có người sau xúc động mạnh. Bệnh nhân thường bị nuốt nghẹn khi ăn thức ăn đặc.
Mức độ khó nuốt phụ thuộc vào loại thức ăn và không giống nhau giữa các trường hợp: có bệnh nhân uống sữa dễ, nhưng uống nước lại khó, có bệnh nhân ăn thức ăn nóng dễ nhưng ăn lạnh lại khó, có bệnh nhân lại ngược lại…
Do nuốt nghẹn, nên bệnh nhân buộc phải kéo dài thời gian ăn để thức ăn có thời gian đi qua chỗ nghẽn ở thực quản, dẫn tới bữa ăn có thể kéo dài hàng giờ.
Cảm giác vướng sau xương ức: có thể kéo dài nhiều giờ ở một số bệnh nhân do thức ăn ứ lại ở đoạn dưới của thực quản.
Đau ở sau xương ức. Cơn đau không liên quan tới hoạt động về thể lực.
Bệnh nhân thường bị nôn một cách tự nhiên nhưng cũng có khi bệnh nhân dùng tay móc họng để nôn ra cho dễ chịu. Nguyên nhân là do thực quản bị hẹp khiến thức ăn khó hoặc không xuống được và dồn ứ ở thực quản làm thực quản giãn dần ra đồng thời kích thích nhu động thực quản tống phần thức ăn này ra để giảm áp lực trong thực quản làm bệnh nhân bị nôn. Giai đoạn đầu, khi thực quản còn giãn ít thì bệnh nhân thấy khó nuốt và nôn sau khi ăn. Ở giai đoạn sau, khi thực quản giãn rộng, thức ăn ứ đọng làm đầy thực quản thì nôn xảy ra muộn hơn nhưng khối lượng nhiều hơn.
Suy dinh dưỡng
Ở giai đoạn đầu, thức ăn vẫn xuống được dạ dày nên thường trong một thời gian dài, tình trạng bệnh nhân vẫn còn tốt. Về sau khi thức ăn ứ đọng ở thực quản nhiều, bệnh nhân chỉ tiêu hóa được rất ít hoặc không tiêu hóa được thức ăn dẫn tới bị suy dinh dưỡng.
Ợ hơi, ợ chua, ho kéo dài … cũng rất thường gặp.
Các trường hợp hẹp thực quản do nguyên nhân ác tính thì có thể xuất hiện thêm 1 số triệu chứng của bệnh lý khối u gây nên (VD: thiếu máu…)
Ở trẻ nhỏ có thể có thêm một số triệu chứng: Chảy quá nhiều nước bọt hoặc nước mũi trong mũi và miệng; ho; khóc không ra tiếng; khó thở sau khi khóc; da xanh khi cố gắng ăn…
Cận lâm sàng:
Các xét nghiệm được dùng để chẩn đoán hẹp thực quản gồm có:
Chụp hoặc chiếu X-Quang với thuốc cản quang.
Soi thực quản: có thể quan sát thấy chỗ hẹp, nhiều khi ống soi không thể đi qua đoạn hẹp xuống dạ dày; có thể phối hợp sinh thiết để phục vụ chẩn đoán
Đo áp lực thực quản
Các biện pháp điều trị bệnh Hẹp thực quản
Tùy vào nguyên nhân gây hẹp thực quản mà ta có thể có các chiến lược điều trị khác nhau
Trường hợp hẹp thực quản do nguyên nhân bẩm sinh (trẻ nhỏ)`
Nếu bệnh được phát hiện ngay trong thai kỳ, ta cần tiếp tục theo dõi cho đến khi em bé được sinh ra. Trong trường hợp này, các bác sĩ sẽ khuyên cha mẹ trẻ nên đến sinh tại các trung tâm chuyên khoa có uy tín để có thể đảm bảo sẵn sàng can thiệp cho trẻ ngay từ khi sinh nếu có biến cố xảy ra.
Nếu sau khi sinh, trẻ được chẩn đoán xác định là hẹp thực quản, các bác sĩ sẽ tiếp tục xem xét các yếu tố khác như: trẻ có được sinh đủ tháng không? trọng lượng sinh? chức năng phổi? … Nếu xác định trẻ có đủ sức khỏe thì sẽ tiến hành phẫu thuật sửa chữa lại ống tiêu hóa.
Hẹp thực quản lành tính
Là những trường hợp bị hẹp thực quản mà nguyên nhân gây hẹp không phải là do ung thư. Tùy thuộc vào nguyên nhân gây hẹp và mức độ nặng của bệnh mà có chiến lược điều trị khác nhau.
Các biện pháp điều trị không dùng thuốc
Nong thực quản: giúp hạn chế, ngăn chặn quá trình hẹp tiếp diễn, giúp bệnh nhân có thể ăn mà không bị ứ đọng thức ăn ở thực quản. Nong thực quản thường là lựa chọn được ưu tiên trong hầu hết các trường hợp vì thủ thuật đơn giản, hiệu quả mà lại ít biến chứng. Tuy nhiên việc thực hiện nó không phải là một việc dễ chịu và thủ thuật này cần được thực hiện nhiều lần để ngăn thực quản tái hẹp trở lại. Thường thì bệnh nhân sẽ được gây mê trong suốt quá trình thực hiện thủ thuật.
Đặt stent thực quản: củng cố tác dụng ngăn chặn việc hẹp thực quản tiếp diễn. Cụ thể là sau khi thực quản đã được nong rộng ra bằng bóng, người ta sẽ đặt vào đoạn thực quản bị hẹp 1 Stent - là một ống mỏng làm bằng nhựa hoặc kim loại có cấu trúc dạng lưới, có thể mở rộng rồi cố định ở hình dạng đó, hình thành 1 cái giá có tác dụng chống đỡ vào thành thực quản, giữ cho thực quản được mở rộng để bệnh nhân có thể ăn uống.
Chế độ sinh hoạt, ăn uống:
GERD được xem là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nhiều biến chứng của thực quản trong đó có hẹp thực quản. Do đó điều trị và dự phòng GERD luôn là việc làm cần thiết mà mọi bệnh nhân bị hẹp thực quản cần thực hiện. Thói quen sinh hoạt và ăn uống lành mạnh có thể trợ giúp bạn kiểm soát được các triệu chứng của GERD, từ đó hạn chế phần nào diễn tiến của hẹp thực quản. Những việc cần làm bao gồm:
Nằm đầu cao bằng cách kê gối (xuống dưới vai) để phần đầu cao hơn 1 chút so với mặt giường (khoảng 15 độ) có tác dụng ngăn axit dạ dày chảy ngược lên thực quản
Những người thừa cân béo phì thường dễ bị trào ngược hơn người có cân nặng bình thường nên giảm cân sẽ giúp làm giảm nguy cơ bị trào ngược.
Chia nhỏ bữa ăn, ăn thành nhiều bữa, mỗi bữa không nên ăn no
Không ăn gì 3h trước khi đi ngủ
Bỏ hút thuốc, tránh uống rượu
Tránh các thực phẩm dễ gây trào ngược axit, ví dụ như: các thức ăn cay, các thực phẩm giàu chất béo, đồ uống có ga, socola, cà phê và các sản phẩm chứa caffeine, thực phẩm có nguồn gốc từ cà chua, các loại hoa quả chua (cam, quýt…)
Điều trị thuốc:
Là một phần quan trọng trong kế hoạch điều trị, nhất là đối với các bệnh nhân bị trào ngược nặng
Các thuốc ức chế, giảm sự bài tiết acid ở dạ dày
Thuốc kháng acid: giúp trung hòa acid ở dạ dày, có tác dụng giảm bớt các triệu chứng của bệnh đang gây khó chịu cho bệnh nhân
Các thuốc điều hòa sự co thắt của ống tiêu hóa
Việc điều trị thuốc trong bệnh này thường kéo dài, có thể đến một vài tháng đòi hỏi bệnh nhân phải kiên trì và tuân thủ đúng chế độ điều trị.
Phẫu thuật
Vấn đề phẫu thuật sẽ được đặt ra nếu các biện pháp điều trị kể trên đã không còn hiệu quả nữa. Phẫu thuật sẽ giúp giải quyết các triệu chứng của hẹp thực quản triệt để hơn, tiên lượng tốt cho các bệnh nhân bị hẹp thực quản lành tính. Tuy nhiên bệnh vẫn có khả năng tái phát (khoảng 30% hẹp tái phát lại sau một năm). Phối hợp điều trị thuốc kiểm soát GERD giúp củng cố kết quả điều trị của phẫu thuật