1. Dòng sự kiện:
  2. Thúc đẩy đàm phán hòa bình Nga - Ukraine
  3. Chiến sự Nga - Ukraine

Nhìn lại 4 năm binh nghiệp của tướng Westmoreland

Nếu cần chọn một chi tiết để tổng kết cuộc đời binh nghiệp của tướng Mỹ William Childs Westmoreland giai đoạn phục vụ chiến trường Việt Nam, có thể nói ngắn gọn rằng, ông ta là người ngoan cố và siêu ảo tưởng.

Tướng William Westmoreland đã từ trần vào thứ hai 18/7/2005 (thọ 91 tuổi). Được xem là người hùng của quân đội Mỹ từ Thế chiến thứ II, Westmoreland là một trong những người ủng hộ thuyết domino về nguy cơ lan rộng Cộng sản tại Đông Nam Á. Năm 30 tuổi, Westmoreland đã đeo lon đại tá. Với tư cách Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Pháo binh 34 đương đầu trực tiếp với tướng Đức Erwin Rommel, Westmoreland giành được sự ngưỡng mộ và kính trọng trong hàng ngũ binh sĩ Mỹ.

 

Trong cuộc chiến Triều Tiên, Westmoreland được phong lon thiếu tướng và sau đó được điều về Lầu Năm Góc làm việc dưới quyền Tổng tư lệnh Lục quân Maxwell Taylor. Năm 1960, Westmoreland giám sát Học viện quân sự Mỹ West Point. Năm 1964, Westmoreland được cử sang Việt Nam, với cương vị Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cố vấn quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam. Trong 4 năm Westmoreland có mặt tại Việt Nam, quân đội Mỹ đã tăng từ 20.000 cố vấn năm 1964 lên 500.000 quân năm 1968.

 

Cuộc chiến “riêng” của Westmoreland

 

Chiến thuật cốt lõi của Westmoreland là tận dụng tối đa hỏa lực. Pháo giội ào ạt, bom thả như mưa và đạn bắn như vãi cát. Lính Mỹ được chia thành từng đơn vị từ 750 quân trở lên cho từng đợt chiến dịch “tìm diệt”. Một trong những kế hoạch đáng kể nhất là OPLAN 34-A do một nhóm “siêu mật” mang tên “Ủy ban 303” thai nghén (nhóm này thường gặp nhau tại phòng 303 thuộc Tòa nhà văn phòng điều hành kế cận Nhà Trắng). Ủy ban 303 nằm dưới sự điều khiển của Tham vấn an ninh quốc gia McGeorge Bundy và dưới trướng gồm các nhân vật chủ chốt của chính phủ, Lầu Năm Góc và CIA.

 

Tháng 1/1964, Ủy ban 303 chuẩn y chương trình phá hoại Bắc Việt, bao gồm những hành động chính như rải truyền đơn, đánh tàu thuyền miền Bắc vận chuyển hàng hóa - vũ khí vào miền Nam, chuẩn bị thực hiện giội bom xuống 94 cứ điểm ở miền Bắc đã được phác thảo... Ngày 1/2/1964, Tổng thống Lyndon B. Johnson phê chuẩn chương trình hành động thử nghiệm 4 tháng, trong đó, nổi cộm là các điệp vụ do thám mang mật danh DeSoto (xâm nhập hải phận Bắc Việt với sự thực hiện của Hạm đội 7 thuộc Hải quân Hoa Kỳ).

 

Sau OPLAN 34-A, tướng Westmoreland yêu cầu đánh mạnh vào phòng tuyến Bắc Việt. Ngày 2/3/1965, Mỹ tung ra hơn 100 máy bay cường kích thả bom xuống Bắc Việt Nam. Tháng 4/1965, Tổng tham mưu trưởng Mỹ Earle Wheeler nói với Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara rằng, những cuộc không kích như thế chẳng làm thiệt hại Bắc Việt bao nhiêu và Hà Nội vẫn “tiếp tục duy trì quyết tâm của mình”.

 

Bởi thế, cần phải áp dụng biện pháp mạnh hơn nữa. Giải pháp B-52 ra đời. Ngày 8/3/1965, các tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ lần đầu tiên đặt chân lên một vùng đất châu Á (Đà Nẵng) kể từ sau cuộc chiến Triều Tiên. Cho đến thời điểm này, tỏ ra nóng nảy trước hiệu quả không đáng kể từ các cuộc không kích Bắc Việt, Johnson triệu tập các tướng nói rằng, ông cần những “ý tưởng và giải pháp mới mẻ” chứ không phải là các đề nghị đánh bom. Đồng thời, Johnson cung cấp cho Westmoreland một “chi phiếu khống”, ý nói rằng Chính phủ Mỹ “hoàn toàn không hạn chế về ngân sách, trang thiết bị cũng như lực lượng quân sự” để đáp ứng cho cuộc chiến Việt Nam.

 

Năm 1967, tại Washington DC, Westmoreland hồ hởi phát biểu: “Chúng ta đã đến một chặng quan trọng” và bắt đầu nhìn thấy “ánh sáng cuối đường hầm”. Vài tuần sau, sự kiện Mậu Thân nổ ra! “War hits Saigon” (Chiến sự bùng nổ tại Sài Gòn) - hàng tít khổng lồ trên trang nhất tờ The News - xuất hiện tại Washington vào buổi trưa. Những hình ảnh kinh hoàng hiện trên truyền hình vào buổi chiều khiến nước Mỹ thêm bàng hoàng. Gần 6 tiếng rưỡi sau vụ tấn công, Mỹ tuyên bố khu vực Tòa đại sứ an toàn và tướng William Westmoreland xuất hiện trước ống kính phóng viên. Khi nghe tuyên bố tái lập trật tự của Westmoreland, dân Mỹ cũng nghe tin rằng, chỉ huy sở của Westmoreland tại  sân bay Tân Sơn Nhất đã bị nện nát. Hỏa tiễn Việt Cộng cũng phóng trúng bộ chỉ huy của tướng Frederick C. Weyand.

 

Sáng hôm sau, Tổng thống Johnson ra lệnh Westmoreland thực hiện chiến dịch tung hỏa mù nhằm vào báo chí Mỹ tại Sài Gòn “để bảo đảm rằng ông (Wesmoreland) kiểm soát hoàn toàn tình hình ở đó”. Sự kiện Mậu Thân là thất bại cuối cùng trong loạt thất bại của tướng Westmoreland tại Việt Nam.

 

Thất bại Mậu Thân chấm dứt sự nghiệp Westmoreland tại Việt Nam

 

Trong quyển CIA and the Vietnam Policymakers: Three episodes 1962-1968, tiến sĩ Harold P. Ford (nguyên viên chức cấp cao CIA, thuộc Văn phòng đánh giá quốc gia, nơi thu thập và mổ xẻ thông tin về chiến trường Việt Nam thập niên 60) cho biết, sự kiện Mậu Thân 1968 là kết quả của sai lầm không chỉ tình báo quân đội mà cả MACV (Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam).

 

Cùng sếp Westmoreland, MACV đánh giá sai nghiêm trọng thực lực bộ đội Việt Nam. Thứ nhất, MACV cho rằng, bộ đội Việt Nam tổn thất nhiều bởi các cuộc oanh kích của Mỹ; thứ hai, MACV dựa vào các con số khảo sát bịp của chính quyền Sài Gòn; và thứ ba, MACV tin các tài liệu tịch thu cũng như lời khai của vài kẻ bị bắt. Cùng lúc, MACV gần như không quan tâm đến tin tình báo do Văn phòng CIA Sài Gòn cung cấp. Trong thực tế, chỉ huy trưởng MACV Westmoreland đã lừa Nhà Trắng và cả sếp mình (Bộ trưởng Quốc phòng McNamara) và đó là lý do tại sao McNamara tập hợp một nhóm nhỏ bí mật, vào tháng 6/1967, với nhiệm vụ thu thập và lập Bộ tài liệu Lầu Năm Góc để nắm rõ hơn về tình hình Việt Nam (mà sau này bộ tài liệu lọt đến báo New York Times và được đăng vào tháng 6/1971).

 

Tại Sài Gòn, trợ lý đặc biệt CIA George Carver luôn gặp cảnh MACV miễn cưỡng hợp tác. Hóa ra, vấn đề còn mang tính chính trị. Cả Westmoreland lẫn Đại sứ Ellsworth Bunker bóng gió nói với Carver rằng quân đội không thể báo cáo toàn bộ sự thật về Washington. Một lần, Ellsworth Bunker gửi bức điện tuyệt mật (đóng dấu “Eyes Only”) về Nhà Trắng, cho biết hậu quả sẽ “rất kinh khủng, nếu rò rỉ thông tin rằng chúng ta không thành công trong việc nghiền nát Cộng quân”. Tại Washington, Cố vấn An ninh quốc gia Walt Rostow cũng rỉ tai Tổng thống Johnson nội dung tương tự.

 

Ngày 21/11/1967, trong buổi nói chuyện tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia ở Washington DC, Westmoreland trình bày: “Tôi tin chắc kẻ thù đang thua. Họ không chiến thắng bất kỳ trận lớn nào trong hơn một năm qua... Sức mạnh kẻ thù đang đuối...”.

 

Sau sự kiện Mậu Thân, Westmoreland yêu cầu Nhà Trắng bổ sung 200.000 quân (vét hết lực lượng quân dự bị Mỹ). Tổng thống Lyndon Johnson trì hoãn, triệu hồi Westmoreland về nước vào tháng 7/1968, phong chức Tư lệnh Bộ binh. Và như vậy 4 năm với nhiều nốt trầm hơn thăng của Westmoreland tại Việt Nam đã chính thức kết thúc.

 

“Ông ấy (Westmoreland) là  người lính có học, đọc rất nhiều sách” - Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời sử gia Stanley Karnow năm 1990 - “Tuy nhiên, ông ấy đã sai lầm sau sự kiện Mậu Thân khi yêu cầu tăng viện thêm 206.000 quân. Ông ấy có thể mang đến Việt Nam thêm 300.000 hoặc thậm chí 400.000 quân thì tình hình cũng chẳng khác đi được”.

 

Năm 1972, Westmoreland nghỉ hưu. Năm 1982, Hãng truyền hình CBS tung ra phim tài liệu The Uncounted Enemy: A Vietnam Deception, nội dung rằng Westmoreland đã đạo diễn nhiều trò bịp và thao túng thông tin tình báo về thực lực quân sự Bắc Việt để thuyết phục nước Mỹ tin rằng lực lượng Bắc Việt “yếu kém” không thể đương đầu được với quân đội Mỹ. Westmoreland kiện CBS, đòi bồi thường 120 triệu USD (vụ kiện được nhà tài phiệt Richard Mellon Scaife tài trợ). Bốn tháng sau, Westmoreland rút lui, tuyên bố “chiến thắng”, như cách ông từng "tuyên bố" đối với cuộc chiến Việt Nam!

 

Theo Lê Thảo Chi

An ninh thế giới