Các đồng minh sẽ hành động tập thể nếu Ukraine gia nhập NATO?
(Dân trí) - Ukraine vẫn nỗ lực gia nhập NATO nhưng tư cách thành viên trong liên minh sẽ không đảm bảo cho Kiev được hỗ trợ nhiều hơn, ngay cả khi Điều 5 của hiệp ước NATO được kích hoạt.
Khi các thành viên NATO chuẩn bị kỷ niệm 75 năm thành lập liên minh tại Washington vào tháng tới, Mỹ và các đồng minh chủ chốt bao gồm Anh và Đức đang tranh luận về mức độ cam kết mạnh mẽ với nỗ lực gia nhập NATO của Ukraine.
Theo báo Telegraph của Anh, Washington và Berlin đã từ chối kế hoạch của châu Âu nhằm mở ra cho Ukraine một con đường "không thể đảo ngược" để gia nhập NATO, thay vào đó đưa ra một "cam kết nhẹ nhàng hơn" và không có mốc thời gian cụ thể.
Chính quyền Kiev đã nhiều lần kêu gọi phương Tây chấp nhận đơn xin gia nhập NATO. Tuy nhiên, ngay cả khi Ukraine được chấp nhận, nước này sẽ không được đảm bảo rằng NATO sẽ triển khai quân trên thực địa hoặc hỗ trợ nhiều hơn những gì Kiev đã nhận được từ liên minh.
NATO là liên minh quân sự gồm hơn 30 thành viên do Mỹ dẫn dắt. Điều 5 trong Hiệp ước NATO nêu rõ, bất cứ cuộc tấn công hay đe dọa nào nhằm vào một trong các thành viên của khối sẽ bị coi là tấn công hay đe dọa toàn liên minh. Khi đó, NATO có quyền tiến hành các biện pháp tập thể để ngăn chặn mối đe dọa hoặc đáp trả cuộc tấn công.
Tuy nhiên, Điều 11 còn giải thích thêm rằng "các điều khoản của hiệp ước sẽ được các bên thực hiện phù hợp với quy trình hiến pháp tương ứng của họ".
Nội dung của hiệp ước có nghĩa là tùy thuộc vào các quốc gia thành viên NATO và cơ quan lập pháp tương ứng của họ để xác định xem liệu có thể và làm thế nào để giải cứu các đồng minh của họ trong trường hợp bị một bên khác tấn công hay không.
"Mỹ và các nước phương Tây khác có thể đứng ngoài cuộc xung đột liên quan đến một quốc gia NATO mà không cần phải phá vỡ các cam kết liên minh của họ. Nội dung của hiệp ước NATO có những kẽ hở khiến các nước thành viên không tham gia vào cuộc chiến của các thành viên khác trong một số tình huống nhất định", Dan Reiter, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Emory và Brian Greenhill, phó giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Albany thuộc Đại học Bang New York đã bình luận trên The Conversation.
Các nhà khoa học chính trị lưu ý rằng, mặc dù hiệp ước NATO đề cập đến khả năng sử dụng lực lượng quân sự trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công từ bên ngoài, nhưng "không đưa ra một định nghĩa rõ ràng về "cuộc tấn công vũ trang" thực sự là gì".
Theo các học giả, điều đó cho phép NATO lập luận rằng, một hành động bạo lực chống lại một nước thành viên NATO chưa chắc đã "đủ" để coi đó là một "cuộc tấn công vũ trang".
Các chuyên gia Reiter và Greenhill cho biết, các thành viên NATO "chỉ chính thức viện dẫn Điều 5 một lần" sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc, giúp Mỹ tuần tra bầu trời nước này từ giữa tháng 10/2001 đến giữa tháng 5/2002.
Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia thành viên NATO đã quyết định không gửi quân tới Afghanistan khi Mỹ tuyên chiến với Taliban. Các học giả chỉ ra rằng, các quốc gia NATO không tham gia "cuộc chiến chống khủng bố" của Washington không bị coi là vi phạm hiệp ước của liên minh cũng như không bị trừng phạt hay bị loại khỏi liên minh.
Ngoài ra, theo các học giả, các thành viên NATO cũng sử dụng vấn đề địa lý để tránh xa các cuộc xung đột giữa các đồng minh.
Quyền lực của Quốc hội
Vào tháng 6 năm ngoái, Thượng nghị sĩ Mỹ Rand Paul đã đề cập đến vấn đề quy định phòng thủ chung trong Điều 5 để nhấn mạnh rằng, quy định "một cuộc tấn công vào một thành viên là tấn công vào tất cả" không tự động dẫn đến phản ứng của quân đội Mỹ.
"Hiến pháp trao cho Quốc hội thẩm quyền duy nhất để xác định thời gian và địa điểm chúng ta gửi con cái của mình đi chiến đấu. Chúng ta không thể giao trách nhiệm đó cho tổng thống, tòa án, một cơ quan quốc tế hoặc các đồng minh của chúng ta", nghị sĩ Paul nói.
Thượng nghị sĩ lên án những người mà ông cho rằng đã lừa dối công chúng về những cam kết của Mỹ theo Điều 5 của hiệp ước NATO.
Vào ngày 6/12/2023, Tổng thống Joe Biden kêu gọi các nhà lập pháp Mỹ bật đèn xanh cho gói viện trợ của Washington cho Ukraine, đồng thời tuyên bố: "Với tư cách là thành viên NATO, chúng tôi đã cam kết rằng chúng tôi sẽ bảo vệ từng tấc lãnh thổ của NATO".
Moscow đã kiên quyết bác bỏ ý tưởng tấn công bất kỳ quốc gia thành viên NATO nào, khẳng định đây là điều vô lý. Tuy nhiên, ngay cả khi kịch bản như vậy xảy ra, việc Mỹ có điều quân để bảo vệ đồng minh hay không sẽ tùy thuộc vào các nhà lập pháp Mỹ chứ không phải Tổng thống Biden.
"Bất kỳ cuộc đối đầu quân sự nào giữa Nga và NATO chắc chắn sẽ có tính chất, phạm vi và thời gian đáng kể, do đó sẽ cần có sự cho phép của Quốc hội", Trung tâm Tư pháp Brennan (BCJ), một viện luật và chính sách công phi lợi nhuận tại Trường Luật của Đại học New York, giải thích.
Theo BCJ, nếu Điều 5 được viện dẫn, bất kỳ quốc gia thành viên NATO nào cũng "có thể quyết định rằng, thay vì đáp trả bằng vũ lực, họ sẽ gửi thiết bị quân sự cho các đồng minh NATO hoặc áp đặt các biện pháp trừng phạt" đối với đối thủ của họ.
Trên thực tế, hình thức hỗ trợ này dành cho Ukraine đã được tiến hành, khi các nước NATO đang gửi thiết bị quân sự cho chính quyền Kiev và sử dụng các biện pháp trừng phạt đơn phương nhằm vào Nga và các đồng minh của Moscow.
Hơn nữa, theo nhiều thông tin bị rò rỉ, có lực lượng đặc nhiệm của NATO được triển khai trên lãnh thổ Ukraine. Điều này cho thấy NATO đang mở rộng sự tham gia của liên minh vào cuộc xung đột mặc dù Ukraine không phải là thành viên.
Tuy nhiên, rất khó để xác định chính quyền Kiev hy vọng nhận được gì hơn nữa từ các đồng minh phương Tây khi gia nhập NATO, vì các nước này dường như không sẵn sàng "hy sinh" vì Ukraine. Lời kêu gọi hồi tháng 2 của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron về việc không loại trừ khả năng triển khai quân đội NATO tới Ukraine đã nhận được rất ít sự nhiệt tình từ các quốc gia thành viên của liên minh.