Sờ được khối u, ung thư vú đã âm thầm phát triển 8-10 năm

Hà An

(Dân trí) - Ung thư vú có thời kỳ "tiền lâm sàng" kéo dài tới 8-10 năm, thời gian để một tế bào ung thư vú đầu tiên trở thành khối u có đường kính 1cm (tương đương 1 tỷ tế bào) để có thể sờ thấy.

Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở nữ giới. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 2 triệu người được chẩn đoán mắc ung thư vú và khoảng người 600.000 người tử vong vì căn bệnh này.

Theo TS Nguyễn Bá Đức, nguyên Giám đốc Bệnh viện K Trung ương (Hà Nội), trong số các bệnh ung thư ở nữ, ung thư vú chiếm tới 35%. Bệnh được phát hiện ở giai đoạn càng sớm thì tỷ lệ chữa khỏi bệnh càng cao. Bệnh có thể chữa khỏi 100% nếu được phát hiện ở giai đoạn tiền lâm sàng. Tỷ lệ sống thêm sau 5 năm giảm dần khi bệnh được phát hiện và điều trị muộn hơn. 

Ung thư vú được xếp vào nhóm ung thư có thể phát hiện được ở giai đoạn sớm.

Sờ được khối u, ung thư vú đã âm thầm phát triển 8-10 năm - 1

Triệu chứng lâm sàng của ung thư vú

Ung thư vú có thời kỳ "tiền lâm sàng" kéo dài tới 8-10 năm. Đây là khoảng thời gian để một tế bào ung thư vú đầu tiên trở thành khối u có đường kính 1cm (tương đương 1 tỷ tế bào) để có thể sờ thấy. Thời kỳ này thường phải khám sàng lọc mới phát hiện được. 

Từ 1cm thành khối u có đường kính 2cm chỉ cần 4 tháng, đây là thời gian cả bệnh nhân và thầy thuốc có thể phát hiện được bằng sờ nắn, khám tuyến vú đúng quy cách.

Từ khối u có đường kính 2cm phát triển thành 4cm cần thời gian ngắn hơn nữa, tùy thuộc có bao nhiêu % tế bào ung thư tham gia vào quá trình phân chia (quá trình nhân đôi). 

Các nhà nghiên cứu cho rằng, tế bào ung thư phân chia theo hàm số mũ. 80-90% bệnh nhân ung thư vú phát hiện có u. Khi khối u to xâm lấn xuống sâu vào cơ thành ngực, thành ngực làm khối u cố định không di động được khi thăm khám. Khối u ở xung quanh núm vú sẽ kéo tụt núm vú. Khối u xâm lấn ra ngoài da dính vào da làm da thay đổi màu da hoặc hình "sần da cam". 

Ung thư vú có thể viêm gây tình trạng sưng, nóng, đỏ, đau một vùng hay toàn bộ tuyến vú. Thể này có tiên lượng rất nặng, có thể tử vong trong vòng một vài tháng nếu không được điều trị đúng phương pháp. 

Ngoài ra, rất có thể phát hiện tình trạng chảy dịch núm vú, đặc biệt dịch màu hồng hoặc dịch máu. 

Trong một số trường hợp xuất hiện hạch ở nách. Có một số trường hợp u vú có thể nhỏ nhưng hạch nách khá to gây chèn ép thần kinh, gây đau dọc mặt trong cánh tay lan xuống ngón tay. Có trường hợp sờ thấy hạch dọc mặt trong cánh tay. 

Những trường hợp đến muộn, khối u xâm lấn da gây ỡ, chảy dịch, máu ra ngoài.

Có một số trường hợp di căn xương (gây đau xương vùng di căn), di căn phổi (ho máu, tức ngực…). 

Nói chung khi phát hiện ung thư vú với các triệu chứng lâm sàng nghèo nàn thì tiên lượng tốt hơn khi các triệu chứng lâm sàng đầy đủ và phong phú. 

Sờ được khối u, ung thư vú đã âm thầm phát triển 8-10 năm - 2

Nguyên nhân gây ung thư vú

Theo bác sĩ khoa Nội 6, Bệnh viện K Trung ương (Hà Nội), bệnh ung thư vú sinh ra do các đột biến gen làm tế bào sinh sản không kiểm soát được. Có nhiều lý do mà cơ thể có các đột biến gen, trong đó khoảng 5-7% trường hợp có nguyên nhân di truyền, còn lại hơn 90% trường hợp chịu tác động của các yếu tố môi trường và lối sống.

Di truyền

Có khoảng 5-7% các trường hợp ung thư vú do các đột biến gen. Các đột biến gen BRCA1/2 di truyền này, gặp cả ở nữ giới và nam giới, làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú, ung thư buồng trứng và một số ung thư khác.

Những đột biến di truyền này có từ ngay khi sinh ra, và chúng ta không thay đổi được nó. Ngoài gen BRCA, thì còn một số đột biến gen khác nữa (p53, PTEN…) cũng tác động vào quá trình hình thành khối u tuyến vú.

Môi trường

Những tác nhân từ môi trường như tia tử ngoại, tia X, hóa chất, khói xe, vi sinh vật… được gọi là các tác nhân sinh ung và được chứng minh có liên quan đến việc làm tăng nguy cơ mắc ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng. Những tác nhân này làm cho các gen dễ bị đứt gãy trong quá trình sao chép, là điều kiện để các đột biến xuất hiện.

Lối sống

Ung thư vú có liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì, uống nhiều rượu, hút thuốc và ít vận động. Do các tế bào tuyến vú hoạt động phụ thuộc vào nội tiết tố estrogen, nên các nguyên nhân làm tăng estrogen có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Thừa cân, béo phì, uống nhiều rượu bia, sử dụng liệu pháp hormone estrogen thay thế… làm cơ thể phơi nhiễm với estrogen nhiều hơn và do đó kích thích tế bào tuyến vú tăng sinh - một điều kiện để các đột biến sinh ung xuất hiện. Thừa cân và ít vận động còn có liên quan đến tăng nguy cơ tái phát ở những người đã mắc ung thư vú.

Khả năng miễn dịch của cơ thể

Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tìm và tiêu diệt các vật thể lạ trong cơ thể, bao gồm các tế bào ung thư. Một khối u ác tính chỉ có thể được hình thành nếu nó vượt qua được hết các chặng kiểm soát của hệ miễn dịch - một tỷ lệ rất nhỏ so với số lượng các đột biến gen xảy ra. Như vậy, về mặt nguyên tắc, nếu có một hệ miễn dịch khỏe và hoạt động tốt thì nguy cơ mắc bệnh ung thư sẽ ít hơn, trong đó bao gồm cả ung thư vú.

Sờ được khối u, ung thư vú đã âm thầm phát triển 8-10 năm - 3

Như vậy, hầu hết các trường hợp ung thư vú đều không xác định được một nguyên nhân cụ thể. Những yếu tố về vật lý, phóng xạ, hóa chất, suy giảm miễn dịch, lối sống… mà chúng ta nói ở trên được gọi là các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú. Có nghĩa là việc tiếp xúc với các yếu tố đó không nhất thiết là nguyên nhân trực tiếp gây ra ung thư vú, nhưng sẽ làm nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn so với không tiếp xúc. Hơn nữa, tác động của các yếu tố nguy cơ này có tính chất cộng gộp, nghĩa là càng tiếp xúc với nhiều yếu tố nguy cơ và trong thời gian càng dài thì nguy cơ mắc ung thư vú càng cao.

Cách tự khám vú

Tự khám là biện pháp quan trọng nhất để phát hiện sớm ung thư vú. Phụ nữ nên tự khám vú đều đặn mỗi tháng một lần, tốt nhất tự kiểm tra sau kỳ kinh nguyệt là lúc vú mềm nhất. Trong gia đình có người thân mắc bệnh thì nguy cơ di truyền càng cao. Nếu bạn phát hiện có khối u hay sự thay đổi của vú, nên đến viện khám càng sớm càng tốt.

Các chị em nên tự khám vú sau kỳ kinh nguyệt khoảng 5 ngày, là lúc tuyến vú mềm và dễ cảm nhận nhất; cần có thói quen khám sức khỏe định kỳ, tầm soát ung thư vú khi qua tuổi 40. Với những chị em có nguy cơ cao (trong gia đình có mẹ hoặc chị em gái mắc ung thư vú, đột biến gen BRCA1/BRCA2; có kinh sớm; không sinh con...), nên đi khám, tầm soát ở lứa tuổi sớm hơn.