1. Dòng sự kiện:
  2. Công nhân Vĩnh Phúc ngộ độc tập thể

Không ăn được thì để chữa bệnh

Khi ăn quả, ít ai để ý đến các phần thừa như vỏ quả, vỏ hạt, hạt. Tuy nhiên, chính những phần vứt đi này lại có tác dụng chữa bệnh, chẳng hạn vỏ quýt, hạt đào, hạt chanh, gương sen đã lấy hạt, tai hồng...

Vỏ quýt

 

Vỏ quýt xanh có tên là thanh bì, vỏ quýt chín phơi khô là trần bì. Vỏ quýt tươi chứa nhiều tinh dầu, caroten, vitamin A, B, hesperidin. Vỏ quýt khô càng để lâu năm càng tốt.

 

Dược liệu có tác dụng làm khỏe dạ dày, hóa đờm, chữa ăn không tiêu, đau bụng, ho tức ngực, sốt rét. Liều dùng 4-12 g/ngày dưới dạng thuốc sắc; dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trong các trường hợp sau:

 

Đau bụng, nôn mửa, ợ hơi, tiêu hóa kém: Trần bì 8g, hoặc hương 8g, gừng sống 3 lát, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống một lần trong ngày.

 

Ho gà: Trần bì 20g, vỏ rễ dâu tẩm mật 20g, hoa đu đủ đực 20g, bách bộ 12g, phèn phi 10g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Trẻ em 1-5 tuổi mỗi lần uống 1-4g, 6-10 tuổi mỗi lần 4-8g. Ngày 3 lần.

 

Tinh hoàn sưng đau: Trần bì, hạt vải (thái mỏng, phơi rồi sao), đại hồi, lượng mỗi thứ bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn. Mỗi ngày uống 4-8g chiêu với ít rượu, chia làm 2 lần.

 

Hạt đào

 

Hạt đào chín lấy nhân, phơi hoặc sấy khô. Khi dùng, để nguyên vỏ lụa và đầu nhọn, giã dập, dùng sống có tác dụng phá ứ huyết; hoặc ngâm nước nóng cho tróc vỏ lụa, cắt bỏ đầu nhọn, sao vàng để hoạt huyết.

 

Dược liệu có tên là đào nhân, có tác dụng khử ứ trệ, nhuận tràng, lợi tiểu, điều kinh, giảm ho.

 

Bế kinh, ứ huyết: Đào nhân 6g, đương quy 10g, xích thược 10g, hồng hoa 5g, xuyên khung 3g. Tất cả thái nhỏ phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.

 

Kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh: Đào nhân, hồng hoa, ngưu tất, tô mộc, mần tưởi, nghệ vàng mỗi vị 8-10g, sắc ngày uống 1 thang.

 

Ho suyễn, khó thở: Đào nhân 10g, giã nhỏ cho vào nấu với 50g gạo nếp thành cháo ăn trong ngày.

 

Hạt chanh

 

Vị đắng, tính ôn, có tác dụng hóa đờm, nhuận tràng, giải độc.

 

Chữa ho lâu ngày: Hạt chanh 10g, hạt quất 10g, lá thạch xương bồ 10g, mật gà đen 1 cái. Tất cả dùng tươi, giã nhỏ, thêm đường, hấp chín, uống làm 2-3 lần trong ngày.

 

Chữa ho trẻ em: Hạt chanh 10g, lá hẹ 15g, hoa đu đủ đực 15g, nước 20ml. Các dược liệu nghiền nát, hòa với nước, thêm mật ong hoặc đường kính, uống làm 3 lần trong ngày.

 

Chữa táo bón: Hạt chanh vừa tách ra khỏi múi quả 10-20g ngâm vào chén nước nóng trong vài giờ. Chắt nước dính bao quanh hạt sẽ nở và tan ra cho một dung dịch đặc nhầy, thêm đường, uống một lần trong ngày.

 

Chữa rắn cắn: Hạt chanh tươi hoặc phơi khô 10-20g, giã nát, thêm nước, gạn uống, lấy bã đắp.

 

Tai hồng

 

Là phần lá đài khô ở quả hồng chín, có tên thuốc là thị đế. Thành phần hóa học chủ yếu trong tai hồng là tanin.

 

Đái dầm: Tai hồng 8-16g thái nhỏ, phơi khô, sắc uống làm một lần vào buổi tối trước khi ngủ.

 

Nấc: Tai hồng 8g, đinh hương 8g, gừng 5 lát. Sắc uống làm 2-3 lần trong ngày.

 

Nôn mửa, lo nghĩ, phiền uất: Tai hồng 7 cái, hồ tiêu 7 hạt, hoắc hương 4g, sa nhân 4g, gừng 7 lát, tỏi 3 nhánh, hành 2 củ. Tất cả băm nhỏ, sắc uống trong ngày. Cuống quả hồng đôi khi cũng được dùng với công dụng tương tự như tai hồng.

 

Gương sen

 

Đế của hoa sen đã gỡ hết quả già có tên thuốc là liên phòng.

 

Băng huyết: Gương sen 2 cái, hương phụ 80g, sao cháy tồn tính, tán nhỏ, ngày uống 16g chia làm 2 lần. Hoặc gương sen 2 cái, buồng cau điếc 40g, phơi khô, cắt nhỏ, nấu lấy nước đặc, uống làm hai lần trong ngày

 

Rong huyết: Gương sen sao tồn tính 20g, kinh giới tuệ sao đen 20g, ngải cứu sao đen 12g, cỏ nhọ nồi 12g, rau má 20g, bách thảo xương 12g, sắc uống làm hai lần trong ngày.

 

Kinh nguyệt ra nhiều: Gương sen đốt tồn tính, tán nhỏ; hoa phù dung (loại mới nở) phơi hoặc sấy khô, tán bột. Hai thứ lượng bằng nhau, trộn đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g với nước cơm.

 

Quả na điếc

 

Quả na đang lớn bị một loại nấm làm hỏng, tự khô xác cứng rắn, màu nâu đỏ tím.

 

Nhọt ở vú, áp xe, quai bị: Quả na điếc 10-20g, phơi thật khô, tán thành bột rồi hòa với giấm, bôi nhiều lần trong ngày.

 

Chữa tiêu chảy, kiết lỵ: Quả na điếc 20g, đốt tồn tính, ngọn non cỏ lào 50g, gạo tẻ rang thật vàng 30g, sắc uống trong ngày.

 

Vỏ hạt đậu xanh

 

Có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, giải độc, làm sáng mắt, tiêu viêm, lợi tiểu.

 

Y học cổ truyền dùng vỏ hạt đậu xanh phối hợp với sinh địa, huyền sâm, thạch cao, huyền minh phấn, cam thảo mỗi vị 10g, phơi khô, nghiền nhỏ, sắc uống chữa sốt cao, mê man, co giật.

 

Để chữa ngộ độc cà độc dược, lấy vỏ hạt đậu xanh 80g, kim ngân hoa 40g, liên kiều 20g, cam thảo 10g; sắc uống ngày 1 thang.

 

Theo kinh nghiệm dân gian, vỏ hạt đậu xanh phơi khô, nhồi vào túi vải để gối đầu, tạo cảm giác mát, dễ chịu, chống nhức đầu, nhất là về mùa nóng ẩm. Vỏ hạt đậu xanh sắc lấy nước đặc, thêm đường cho ngọt, uống để chữa ngộ độc nói chung, nấm độc, say nắng. Khi bị cảm nóng ra nhiều mồ hôi, có thể nấu nước vỏ hạt đậu xanh 10g với lá dâu non 16g, lá tía tô 12g mà uống.

 

Chữa sốt cao, mê sảng: Vỏ hạt đậu xanh 12g, kim ngân hoa 12g, lá tre 12g, bạc hà 8g, kinh giới 6g, sắc uống.  

Theo Sức khỏe & Đời sống

Dòng sự kiện: Thuốc từ quả