"Mỗi lần đưa cơm ra trận địa, thấy thừa vài nắm là buồn lắm!"
(Dân trí) - “Có những hôm mang cơm ra phát cho anh em, không khi nào mình sợ thiếu cơm, nếu hôm nào cơm thừa 2 - 3 nắm là buồn lắm vì một là anh em hi sinh hoặc bị thương nặng. Phát cơm xong, lại chuẩn bị mang đồng đội hi sinh về chôn cất rồi bỏ lại nắm cơm cho anh em và tiếp tục đưa thương binh về tuyến sau cứu chữa” - người Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Cao Xuân Cới nhớ lại.
Chỉ muốn trực tiếp cầm súng chiến đấu
Một ngày cuối tháng 4/2017, theo lời giới thiệu, tôi tìm về làng Phong Mỹ, xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa), hỏi thăm đường đến nhà ông Cao Xuân Cới (SN 1949). Căn nhà cấp bốn nằm sâu cuối con đường bê tông, vừa đến nơi, tôi được một người đàn ông tóc đã điểm bạc đón tiếp.
Dù đã gần 70 tuổi, trong mình mang những vết thương của chiến tranh, nhưng trông ông vẫn còn rắn rỏi. Ông Cới đang sửa soạn để đi gặp mặt các cựu chiến binh nhân kỷ niệm 42 năm giải phóng miền Nam.
Bên ấm chè khô, ông hồi tưởng lại quãng thời gian tham gia quân ngũ của mình và thời khắc thiêng liêng khi những người lính Cụ Hồ hừng hực khí thế tiến thẳng vào Sài Gòn trong chiến dịch lịch sử của thời điểm 42 năm trước.
Ông kể, năm 1968, như bao lớp thanh niên ngày ấy, ông xung phong đi bộ đội vào Trung đoàn 154, Pháo 120 bảo vệ bờ biển Sầm Sơn, Thanh Hóa. Cuối năm 1969, ông nhận nhiệm vụ chuyển về Trung đoàn 146 tham gia huấn luyện để đi B. Sau thời gian huấn luyện, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ông lên đường vào chiến trường miền Đông Nam Bộ và được biên chế vào Đại đội 11,Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 209, Sư đoàn 7.
Vào đơn vị, ông được giao nhiệm vụ làm công tác nuôi quân: “Lúc đó, khi được giao công việc nuôi quân, tôi có đề xuất với đơn vị là muốn trực tiếp cầm súng chiến đấu. Nhưng lãnh đạo đơn vị nói, công tác nuôi quân cũng quan trọng như chiến đấu vậy, ai cũng đi chiến đấu thì anh em đồng đội không có cơm ăn”, ông Cới nhớ lại.
Ông Cới với những kỷ niệm về một thời chiến đấu hào hùng
Đầu năm 1974, người lính trẻ Cao Xuân Cới được trực tiếp cầm súng chiến đấu ở khu vực Tây Ninh, Sông Bé. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, đơn vị ông cùng tham gia chiến dịch đánh Phước Long, giải phóng xong thì đơn vị được lệnh tiến về Đồng Nai. Tại đây, đơn vị ông cùng với các đơn vị khác phối hợp tiếp tục giải phóng tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh. “Đây được xem là cánh cửa thép vào Sài Gòn đã bị tan vỡ khiến cho quân Ngụy ở Sài Gòn có tư tưởng lung lay”, ông Cới nhớ lại.
Sau khi cấp trên có quyết định cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đơn vị bác thuộc cánh quân phía Bắc. Đơn vị ông xuất phát từ Hướng Quản, Long Khánh dọc theo quốc lộ 1 đánh hướng Hố Nai, Trảng Bom và thẳng đó tiến vào căn cứ Biên Hòa. Đúng 10h ngày 30/4/1975, đơn vị đã tiến vào được thị xã Biên Hòa và làm quân quản. Tại đây, đơn vị làm công tác dân vận, bảo vệ dân và tiếp quản những gì của Ngụy để lại.
Ông còn là một tấm gương vượt khó vươn lên làm giàu trong thời bình
"Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đơn vị hành quân chiến đấu trên đường tiến về Sài Gòn, chưa chiến dịch nào, anh em thấy khí thế và phấn khởi, dù phải hành quân đường dài nhưng anh em vẫn hăng say, nhiều khi không còn nghĩ đến ăn uống mà chỉ theo chiến dịch”, ông Cới nhớ lại.
Không sợ thiếu, chỉ sợ thừa nắm cơm
Trong thời gian tham gia quân ngũ, với ông Cao Xuân Cới, những ngày làm công tác nuôi quân có biết bao ký ức. Dù đoạn đường đưa cơm chỉ dài chừng 2 - 3 km, nhưng trên đường đi có thể gặp phải bom, mìn hay biệt kích, thám báo... Có những hôm, đi từ 2, 3h chiều nhưng mãi đến 1, 2h sáng ngày hôm sau mới đến được trận địa phát cơm cho đồng đội.
Những ngày làm công tác nuôi quân, các chiến sĩ trên đôi vai lúc nào cũng phải gùi khoảng 40kg cả cơm và nước uống. Trên đường đi nếu không may mảnh bom làm thủng can nước thì phải dấu cơm lại và quay về lấy can nước khác ra trận địa cho anh em, bởi quan trọng nhất là nước uống.
Nét mặt đượm buồn khi nhớ lại ký ức về những đồng đội của mình đã hi sinh
Mang cơm đến trận địa xong, nếu có thương binh thì đưa đồng đội về phía sau cứu chữa, nếu đồng chí mình hi sinh thì đưa về chôn cất. Có những khi về đến nhà đã 8, 9h sáng lại lao vào chuẩn bị cho cơm buổi chiều đưa đi, mang quần áo của anh em trên trận địa về giặt, có những hôm không được ngủ. Ngày nào không có thức ăn, ông cùng anh em lại phải vào rừng đổ dế, hái măng về cải thiện món ăn cho đồng đội.
Khi tôi hỏi về những ký ước trong thời gian làm công tác nuôi quân, người đàn ông có vẻ ngoài rắn rỏi đang sống lại khí thế hừng hực của những ngày tham gia chiến trận hơn 40 năm trước bỗng chùng nét mặt lại. “Có những hôm mang cơm ra phát cho anh em, không khi nào mình sợ thiếu cơm, nếu hôm nào cơm thừa 2 - 3 nắm là buồn lắm vì một là anh em hi sinh hoặc bị thương nặng. Phát cơm xong, lại chuẩn bị mang đồng đội hi sinh về chôn cất rồi bỏ lại nắm cơm cho anh em và tiếp tục đưa thương binh về tuyến sau cứu chữa”, ông Cới nghẹn ngào kể lại.
Sau hàng chục năm tham gia quân ngũ, trở về quê với thương tích 21% và bị nhiễm chất độc da cam, hiện ông có một gia đình hạnh phúc, cuộc sống bình dị trên mảnh đất quê hương của mình. Dù nghỉ hưu, ông vẫn chưa nghỉ ngơi mà tiếp tục tham gia hoạt động trong các đoàn thể xã hội ở địa phương, được người dân tín nhiệm bầu làm Bí thư chi bộ nhiều năm liền. Từ năm 2011 đến nay ông làm Chủ tịch Hội nạn nhân chất độc da cam của xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa.
Với những cống hiến của mình, năm 1976, ông vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ năm 1971 - 1975, năm nào ông cũng là chiến sĩ thi đua và chiến sĩ quyết thắng của Trung đoàn và Sư đoàn. Trong những ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu của mình, ông đã trải qua biết bao chiến dịch, trận đánh vào sinh ra tử. Ông nhớ lại trận đánh khi chuyển từ làm công tác nuôi quân sang trực tiếp chiến đấu là vào tháng 1/1974, đánh Ấp Bến Cát, Bình Dương rồi Ấp Tân Phú Trung, Củ Chi, TP Hồ Chí Minh, trận này, Trung đội của bác tiêu diệt hơn 20 lính Ngụy, thu nhiều vũ khí của địch...
Trong sự nghiệp chiến đấu của mình, ông đã trải qua các chức vụ như Trung đội trưởng, Chính trị viên phó Đại đội 11, trợ lý cán bộ của Sư đoàn. Sau khi miền Nam được giải phóng, non sông thu về một mối, ông cùng đơn vị còn tiếp tục tham gia tiêu diệt quân Khmer Đỏ ở biên giới Tây Nam.
Năm 1978, ông rời đơn vị đi học Học viện hậu cần và về công tác tại trường quân sự, Quân đoàn 1, với vị trí Phó chủ nhiệm phòng hậu cần và đến năm 1991 thì về hưu với quân hàm Thiếu tá và sống ở quê cùng gia đình từ đó đến nay.
Hiện ông Cới có 4 người con, 3 gái 1 trai, các con đều đã trưởng thành, lập gia đình riêng. Câu chuyện tình yêu hơn 40 năm trước của ông cũng là một kỷ niệm không thể nào quên.
Tháng 9 năm 1975, ông trở ra Hà Nội dự Lễ Quốc khánh và được về quê nghỉ phép 30 ngày. Lúc đó, ông cũng đã có tuổi nên anh em, họ hàng mai mối, giới thiệu cô gái Hoàng Thị Miện ở xã bên.
“Lúc gặp bà ấy, mình có nói tôi chỉ được nghỉ phép trong thời gian một tháng, nếu đồng ý thì cưới, vì tôi còn phải đi làm nhiệm vụ Tổ quốc giao. Thế là bà ấy đồng ý và cưới thôi mà”, ông Cới tâm sự.
Chuyện tình của ông từ khi làm quen đến khi cưới chỉ vỏn vẹn trong nửa tháng trời. Sau khi cưới vợ xong, ông ở nhà thêm ít ngày lại phải lên đường ra Hà Nội trở về đơn vị. Rồi ông đi ròng rã từ đó đến tận năm 1979, sau khi rời đơn vị ra đi học mới được gặp lại người vợ trẻ của mình, chính thức xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc từ đó...
Duy Tuyên