DMagazine

"Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn"

(Dân trí) - Ông Phạm Hồng Đào, Phó chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo chia sẻ kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 sau 2 năm và định hướng trong thời gian tới.

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 1

Đến tháng 6/2023, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 sẽ đi được nửa chặng đường. Xin ông cho biết về những kết quả nổi bật và những mục tiêu còn cần thực hiện sau 2,5 năm thực hiện chương trình này?

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội phê duyệt chủ trương vào tháng 7/2021 và Thủ tướng phê duyệt chương trình tháng 1/2022. Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành và địa phương xây dựng văn bản hướng dẫn, đồng thời Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phân bổ ngân sách trung ương vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2021-2025 và vốn ngân sách trung ương năm 2021, 2022, 2023 nhằm thực hiện chương trình. 

Ban chỉ đạo trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia cũng được thành lập để chỉ đạo chung các chương trình, được kiện toàn từ trung ương tới địa phương tạo cơ chế quản lý đồng bộ, thống nhất. Công tác thông tin, tuyên truyền, truyền thông về chương trình được quan tâm thực hiện, đổi mới phương thức thực hiện; công tác giám sát đánh giá được chú trọng, tăng cường.

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 3

Kết quả bước đầu thực hiện chương trình đã góp phần đạt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao hàng năm. Người dân đã có ý thức chủ động nỗ lực vươn lên thoát nghèo, chủ động tổ chức các hoạt động sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt, tạo sinh kế, tạo thu nhập phù hợp với điều kiện thực tiễn từng địa phương, trong bối cảnh ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Theo tôi, trong thời gian tới, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn, kịp thời bố trí vốn đối ứng và huy động nguồn lực xã hội, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn thực hiện chương trình.

Việc tăng cường công tác thông tin, truyền thông về giảm nghèo; nâng cao nhận thức, trình độ cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp, tăng cường công tác giám sát, đánh giá để có thể đạt được mục tiêu chung của chương trình là giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo cũng cần được thực hiện đồng bộ hơn.

Các biện pháp hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống, hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn cần đi vào thực chất và phù hợp với tình hình của từng địa phương.

Mục tiêu của chương trình là tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm; 30% huyện nghèo, 30% xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo. Riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm cần giảm từ 4 đến 5%/năm.

Ông đánh giá yếu tố nào mang ý nghĩa quan trọng nhất, góp phần tạo cơ sở để hoàn thành các mục tiêu chương trình đến năm 2025?

Để thực hiện hiệu quả chương trình, theo tôi cần có hệ thống các giải pháp thực hiện, có sự phân công, phân cấp rõ ràng gắn với trách nhiệm thực hiện.

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 tuy bắt đầu từ năm 2021 nhưng thực chất triển khai thực hiện bắt đầu từ giữa năm 2022 khi đã có đầy đủ căn cứ pháp lý và bố trí nguồn lực thực hiện. Do vậy, để tạo cơ sở, góp phần hoàn thành các mục tiêu của chương trình, hệ thống văn bản hướng dẫn đầy đủ, phù hợp và kịp thời, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đồng thời bố trí đủ, kịp thời nguồn lực để thực hiện là những yếu tố quan trọng nhất. 

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 5

Trên thực tế, đây là chương trình được ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng và các bộ theo Quyết định số 1705. 

Giai đoạn 2021-2022 áp dụng cả hai chuẩn nghèo đa chiều khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là 2 năm khó khăn do những ảnh hưởng của dịch Covid-19 và biến động kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Những tác động khách quan này đã gây ra những khó khăn gì trong quá trình thực hiện các mục tiêu của chương trình, thưa ông?

Giai đoạn 2021-2022 áp dụng cả hai chuẩn nghèo đa chiều khác nhau. Nguyên nhân là do chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020 chưa phản ánh đầy đủ thực trạng khách quan tình trạng nghèo của các hộ gia đình ở các vùng, miền tại thời điểm năm 2021 dẫn tới khó đánh giá được mục tiêu giảm nghèo thực hiện năm 2022 so với năm 2021. 

Ngoài ra, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo tuy đã được phê duyệt nhưng mới bước đầu triển khai thực hiện nên chưa đánh giá được chi tiết mục tiêu, kết quả cụ thể thực hiện các dự án, tiểu dự án và chỉ tiêu giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của chương trình trong năm 2021, 2022 về việc làm, y tế, giáo dục đào tạo, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin.

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 7

Ngay cả nguồn vốn bố trí thực hiện các dự án, tiểu dự án còn chậm, riêng Tiểu dự án về cải thiện dinh dưỡng và Dự án hỗ trợ về nhà ở cho hộ nghèo, hộ nghèo trên địa bàn huyện nghèo thậm chí còn chưa được bố trí năm 2022. 

Do vậy, kết quả giảm nghèo của giai đoạn năm 2021-2022 cũng chưa bền vững do người dân dễ rơi vào tình trạng tái nghèo vì các lý do khách quan, chủ quan (ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, thiên tai...).

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 9

Giữa những khó khăn này, Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo đã thực hiện vai trò như thế nào về cả tham mưu chính sách cũng như đôn đốc các địa phương theo đúng mục tiêu đã đề ra?

Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo đã chủ động tham mưu cho bộ và các cấp có thẩm quyền kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện chương trình.

Theo đó, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 09, Thông tư 17, đồng thời giải đáp 27 kiến nghị của các địa phương, góp ý nội dung sửa đổi, bổ sung Nghị định 27 quy định cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia cùng Thông tư 46 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí sự nghiệp từ nguồn ngân sách trung ương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.

Bên cạnh đó, Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo tham mưu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản gửi Chủ tịch UBND các địa phương đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình, tăng cường công tác giám sát, đánh giá thực hiện trên cả nước. 

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 11

Ban Chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu quốc gia thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc, nhắc nhở các địa phương khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn thông qua các cuộc họp trực tuyến toàn quốc, các chỉ thị, công điện, thông báo, công văn đôn đốc. 

Văn phòng cũng tăng cường công tác giám sát, đánh giá thực hiện chương trình, trong đó tập trung giám sát đánh giá tại các địa phương có huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo về việc huy động, sử dụng vốn thực hiện chương trình và tiến độ giải ngân.

Các nội dung cụ thể như tình hình sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong thực hiện các dự án đầu tư, tiến độ, kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cùng các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình đều được chúng tôi nắm bắt kịp thời để tháo gỡ, đẩy nhanh tiến độ giải ngân.

Thời gian tới, Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo sẽ tham mưu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổng kết, đánh giá chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2022-2025, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chuẩn nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân trong giai đoạn đến năm 2030.

Việc đổi mới cách tiếp cận về giảm nghèo, tiếp tục hoàn thiện bộ công cụ rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo đa chiều phù hợp với điều kiện thực tế của hộ nghèo, hộ cận nghèo tại một số vùng, địa phương cũng sẽ được thực hiện gấp rút nhằm áp dụng hiệu quả vào thực tế đánh giá.

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 13

Sau 2 năm, tổng nguồn vốn thực hiện chương trình từ ngân sách được thực hiện ra sao, thưa ông?

Theo thống kê, sau 2 năm, tổng nguồn vốn thực hiện chương trình từ ngân sách đạt khoảng 9.163,107 tỷ đồng. Trong đó, 543,107 tỷ đồng năm 2021 và 8.260 tỷ đồng năm 2022.

Con số này chỉ đạt 19,1% dự toán sử dụng cho cả giai đoạn 2021-2025 (khoảng 48.000 tỷ đồng từ ngân sách trung ương và 12.700 tỷ đồng từ ngân sách địa phương).

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 15

Như vậy, trong thời gian còn lại, để có thể đạt được các mục tiêu Chương trình đề ra, việc bố trí vốn cần linh hoạt phù hợp với khả năng của ngân sách Nhà nước nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả cơ cấu vốn, tránh tạo áp lực giải ngân vốn trong năm cuối của chương trình.

Tôi cho rằng việc tăng nguồn lực cho những năm giữa chương trình rất cần thiết. Bên cạnh đó, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần huy động tối đa các nguồn lực xã hội hóa để thực hiện chương trình, góp phần đạt mục tiêu đề ra.

Theo ông, trong thời gian tới cần có định hướng ra sao để thực hiện chương trình nhằm đạt được các mục tiêu đề ra?

Để tiếp tục thực hiện chương trình một cách đồng bộ, hiệu quả, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, các cơ quan cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách giảm nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; đổi mới cách tiếp cận về giảm nghèo, ban hành chính sách hỗ trợ có điều kiện, tăng cường tín dụng chính sách xã hội cho người nghèo.

Thứ hai, việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo, bố trí vốn đối ứng từ ngân sách địa phương cần thực hiện hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.

Các nguồn huy động đóng góp hợp pháp của doanh nghiệp, nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, vốn đối ứng, tham gia, đóng góp của người dân, đối tượng thụ hưởng cũng cần được tăng cường, nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết hoàn thành các mục tiêu của chương trình.

Thứ ba là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội, nhất là người dân nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong giảm nghèo bền vững.

Chúng ta cũng cần phát huy mạnh mẽ truyền thống đoàn kết, tinh thần "tương thân, tương ái" của dân tộc ta đối với người nghèo, bên cạnh việc khơi dậy ý chí tự lực tự cường của người nghèo, chủ động vươn lên thoát nghèo, không trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.

Giảm nghèo bền vững cần cơ chế, chính sách gắn liền với mục tiêu, nguồn vốn - 17

Thứ tư là việc chỉ đạo, phối hợp thực hiện hiệu quả việc lồng ghép việc thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ giảm nghèo nói chung và cơ chế, chính sách giảm nghèo đặc thù với các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn cả nước, nhất là ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo sẽ mang lại động lực lớn cho toàn chương trình.

Thứ năm là nâng cao năng lực đội ngũ những người làm công tác giảm nghèo, những người tham gia thực hiện các nội dung của chương trình để hỗ trợ người nghèo vươn lên thoát nghèo, hỗ trợ người dân nâng cao năng lực, không rơi vào tình trạng nghèo đói. Để làm được điều này, hoạt động tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài nước cho các đối tượng trực tiếp tham gia thực hiện các dự án của chương trình là cần thiết và phải được thực hiện đồng bộ. 

Cuối cùng, theo tôi, quá trình thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện chương trình ở các cấp, các ngành phải được tăng cường, trong đó lưu tâm đến những biện pháp phòng ngừa, kịp thời ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, lãng phí, xử lý nghiêm các vi phạm trong quá trình thực hiện chương trình.

Nội dung: Quỳnh Anh

Thiết kế: Tuấn Huy