60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014):
Đau đáu kỷ vật Huy hiệu chiến sỹ Điện Biên Phủ
(Dân trí) - Trong một trận bom đánh phá khốc liệt vào trọng điểm, ông hy sinh; kỷ vật còn lại là tấm huy hiệu chiến sỹ Điện Biên Phủ...
Phải vậy chăng, mỗi dịp lên Điện Biên Phủ, tôi dành phần lớn thời gian thăm bảo tàng lịch sử. Mỗi hiện vật như lấp lánh, tỏa rạng quá khứ hào hùng của dân tộc. Tôi cứ trân trọng lật từng lưỡi xẻng, lưỡi cuốc mòn vẹt, sứt mẻ vì mảnh bom, vết đạn xuyên thủng. Đâu là lưỡi xẻng, lưỡi cuốc mà cha tôi sát cánh cùng lớp lớp chiến sĩ khoét núi, mở đường kéo pháo, xây dựng hệ thống chiến hào tiến công, vây lấn, thực hiện phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.
Họ là lính Đại đoàn 312, 304, 308, 316, 351, những người con từ nhân dân mà ra vì nhân dân mà chiến đấu. Cha tôi kể chỉ trong khoảng 10 ngày, bộ đội đã đào hơn 100 km hào chiến đấu, hầm trú ẩn tránh phi pháo, tạo thế trận vây hạm tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Từng ngày, từng giờ siết chặt cổ họng từng phân khu cứ điểm, cắt ngang sân bay Mường Thanh.
Sinh thời, mỗi khi vào dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Vũ Đình Chi, quê xã Diễn Phong, huyện Diễn Châu, nguyên Bí thư huyện ủy Diễn Châu, nguyên Trưởng Ban cung cấp hậu cần kháng chiến chống Pháp của huyện Diễn Châu thường, lại hào hứng kể lại cho thế hệ trẻ về kỳ tích chỉ trong một tháng, hơn 300 lò rèn làng Nho Lâm (bao gồm xã Diễn Thọ, Diễn Phú, Diễn Lộc) và hơn 100 lò rèn làng Thượng Rừng (Nghi Xuân, Nghi Lộc) liên tục nổi lửa rèn 10.000 lưỡi xẻng, 5.000 lưỡi cuốc chim cung cấp cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Riêng làng đúc lưỡi cày chợ Si (xã Diễn Kỷ, Diễn Châu) còn rèn cả búa tạ, xà beng, dao phát cung cấp cho 500 đội viên thanh niên xung phong mang tên Cù Chính Lan Nghệ An mở đường vào bến phà Tạ Khoa, bảo đảm giao thông đèo Pha Đin, ngã ba Cò Nòi dẫn vào Tuần Giáo.
Ông Cao Xuân Khuê, huyện đội trưởng Diễn Châu thời ấy nhận lệnh từ Hội đồng cung cấp tiền phương trực tiếp chỉ huy, đôn đốc 2 huyện Diễn Châu, Nghi Lộc gấp gáp bảo đảm đủ số lượng xẻng, cuốc trong một tháng, kịp chuyển ra chiến trường. Nguồn nguyên liệu sắt, thép là vô số thanh tà vẹt đường sắt hư hỏng, thanh dằng cầu bị bom ném cong vênh từ Hoàng Mai tới cầu sắt Yên Xuân. Một nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào nữa là đóng góp của nhân dân cả tỉnh Nghệ An, đấy là hàng vạn tấn than củi, dao cùn, lưỡi cày, lưỡi mác, lưỡi cưa, lưỡi rìu…
Những ngày đầu tháng 3 năm 1954, dọc tuyến đường 1A, kênh nhà Lê, kênh Sắt, rạo rực, nô nức từng đoàn xe bò kéo, xe cút kít, xe đạp thồ, thuyền nan chở lặc lè những sắt, những thép hối hả đổ về bãi tập kết làng rèn Nho Lâm, làng rèn Thượng Rừng, làng đúc chợ Si.
Dưới dãy núi Đại Vạc, không gian như sôi sục bởi tiếng búa tạ nện mặt đe tạo dáng lưỡi xẻng, lưỡi cuốc. Lửa phun từ lò sáng rực thâu đêm suốt sáng. Chẳng biết người thợ rèn làng Nho Lâm thời ấy sử dụng bao nhiêu tấn nguyên liệu để rèn hàng vạn lưỡi xẻng, chỉ biết đến bây giờ người dân khi xây nhà, đào móng vẫn chạm vào vô số vỉa xỉ than, xỉ sắt nung đã đông kết dày hàng mét.
Nguyên cớ nào, động lực nào truyền sức mạnh cơ bắp và cả ý chí cho hàng nghìn lực sĩ Nho Lâm tạo ra hàng vạn sản phẩm cho bộ đội Điện Biên Phủ thực hiện chiến thuật đào hào đánh lấn, xóa sổ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tôi lại ngược dòng lịch sử chống thực dân Pháp của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn hưởng ứng chiếu Cần Vương, khởi nghĩa chống Pháp từ năm 1885.
Không chỉ những người thợ đúc quặng sắt, thợ rèn tham gia nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn dựng cờ khởi nghĩa tại Động Thờ (huyện Yên Thành, Nghệ An), xây chiến lũy tại Thành Trài mà người thợ rèn Nho Lâm còn chuyển xưởng vào rừng Đại Vạc bí mật rèn dáo, mác, kiếm, đúc cả súng hỏa mai bắn đạn chì cung cấp cho hàng vạn nghĩa quân đánh Pháp. Thực dân Pháp vây ráp, bắt bớ, khủng bố, đốt cháy làng Nho Lâm, triệt phá bệ rèn, giết hại thợ nhưng ý chí chống Pháp đến người cuối cùng của nhân dân Nho Lâm vẫn không lay chuyển.
Ông Vũ Đình Chi từng kể, thợ rèn Nho Lâm có sức vóc cao từ 1,5m đến 1,7m, nặng từ 70 đến 80kg, khi ăn “nồi bảy quăng ra, nồi ba quăng vào”. Họ quai búa 15 giờ mỗi hiệp rèn, bởi thế trong vòng một tháng người của Hội đồng cung cấp tiền phương từ Thanh Hóa vào nhận hàng đã không khỏi ngỡ ngàng, hồ hởi khi tiếp nhận đủ cơ số xẻng, cuốc đạt tiêu chuẩn cho mặt trận.
Lại cũng huyện ủy Diễn Châu tổ chức đoàn dân công hỏa tuyến cùng dân công Hưng Nguyên, Quỳnh Lưu, Nghi Lộc, Nam Đàn nhận chuyển xẻng, cuốc tới tiền phương. Bí thư huyện ủy Vũ Đình Chi, huyện đội trưởng Cao Xuân Khuê chọn tuyển 500 thanh niên trai tráng, dùng xe đạp tải hàng ra mặt trận.
Phong trào “Mùa Đông binh sĩ”, “Hũ gạo nuôi quân kháng chiến”, “Áo ấm bộ đội” ở Nghệ An là nền tảng để động viên gia đình khá giả, thương gia ủng hộ 5.000 xe đạp loại tốt. Những chiếc xe đắt tiền được gá lắp thêm tay ngai bằng thân tre già, gia công thêm vành xe bằng nan hoa gỗ, lắp thêm đền gầm để tránh máy bay khi hành quân đêm. Câu ca tự thuở khởi thủy nghề đúc quặng, rèn nông cụ:
“Nho Lâm than quánh nặng nề
Sức em đang được thì về Nho Lâm”.
Khi chuyển hàng lên Điện Biên Phủ dân công thay lời mới:
“Nho Lâm rèn, đúc làng nghề
Hàng ra mặt trận sáng nghề Nho Lâm”.
Đoàn dân công chuyển 10.000 lưỡi xẻng được bọc kín bằng bẹ chuối, phủ đầy lá ngụy trang vượt đường 15, qua Thọ Xuân, Thạc Minh, ngược ngã ba Mãn Đức (Hòa Bình) lên suối Rút kịp giao hàng tại trạm hậu cần trung tuyến trước ngày toàn mặt trận mở đợt tấn công đợt 2 vào thượng tuần tháng 4 năm 1954. Ông Cao Xuân Khuê kể, đoàn dân công trên đường tới mặt trận đã được nghe thư động viên của Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi toàn thể anh chị em dân công phục vụ hỏa tuyến.
Ông còn nhớ lời của Đại tướng “Nhiệm vụ của anh chị em rất nặng nề và quan trọng. Nó đòi hỏi một tinh thần hy sinh dũng cảm, một tinh thần phục vụ bền bỉ dẻo dai cũng như tinh thần xung phong giết giặc của anh chị em chiến sĩ ở mặt trận…”. Ông Cao Xuân Khuê hồi tưởng lời động viên, kêu gọi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thôi thúc đoàn dân công Nghệ An vượt qua các tọa độ dày đặc bom, đạn đèo Khế, đèo Hút Gió, đèo Lũng Lô, đèo Pha Đin, ngã ba Cò Nòi, bến phà Tạ Khoa.
Mang theo tấm huy hiệu Điện Biên Phủ, kỷ vật còn lại của người cha, tôi tới làng rèn Nho Lâm mong tìm lại những người thợ rèn năm 1953 - 1954 nhưng tất cả đã về thế giới người hiền. Thế hệ hôm nay vẫn còn nhớ kỳ tích rèn xẻng cho mặt trận Điện Biên Phủ của thế hệ cha ông đánh giặc. May mắn lớp trẻ hôm nay không quay lưng với chiến thằng hào hùng của dân tộc, của quân đội nhân dân anh hùng.
Riêng Đại tá Công an nhân dân Từ Ngọc Anh, ông Mai Ất, nguyên phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An, Chủ tịch Hội Cựu Thanh niên xung phong Nghệ An, từng là chiến sĩ Thanh niên xung phong hỏa tuyến bám trụ ở ngã ba Cò Nòi, đèo Pha Đin vẫn còn khắc sâu tâm khảm khi được mở đường, san lấp hố bom trước cửa ngõ mặt trận Điện Biên Phủ.
Các ông không thể quên những chiếc xẻng, chiếc cuốc được rèn, đúc và chuyển gần 600km đường gian nan, bom đạn từ làng rèn Nho Lâm, Thượng Rừng tới Điện Biên Phủ góp phần làm nên chiến thắng chận động địa cầu.
Văn Hiền - Nguyễn Duy