Nhớ một thời phóng viên chiến trường
Mùa xuân năm 1975, tôi đang là phóng viên quân sự thuộc Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị QĐNDVN, thì nhận được lệnh:
- Chuẩn bị đi mặt trận Quảng Trị - Thừa Thiên Huế.
Với những phóng viên quân sự, chuyện ra mặt trận không có gì là bất ngờ. Năm 1972, chúng tôi cũng đã lăn lộn cùng đồng đội ở mặt trận Quảng Trị mấy tháng trời, trong những ngày tháng chiến tranh ác liệt nhất nơi đây. Có thời điểm địch dùng súng phun lửa bắn vào từng ngách hào, từng hố cá nhân, nơi các chiến sĩ ta bám trụ.
Trên các chiến hào, chúng tôi đã gặp những cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn, trung đoàn còn trẻ măng, có người chưa đến tuổi 30. Những ngày tháng ấy, cánh phóng viên quân sự chúng tôi viết về người chiến sĩ không phải trăn trở, cân nhắc nhiều. Bản thân cuộc đời mỗi người lính là một câu chuyện hấp dẫn với hậu phương. Lúc đó lợi ích của mỗi con người gắn với vận mệnh của dân tộc.

Nhà báo Ngọc Đản (ngoài cùng, bên phải) cùng các đồng nghiệp Trần Mai Hưởng (giữa) và Hoàng Thiểm qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng, tháng 3/1975 (Ảnh tư liệu báo Nhân Dân)
Nhận lệnh trở lại mặt trận Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, chúng tôi háo hức lên đường. Trong thâm tâm, ai cũng nghĩ lần này sẽ được đi xa hơn, vào sâu hơn. Chúng tôi được Bộ Biên tập Thông tấn xã Việt Nam gặp mặt trao đổi và tiễn đưa. Đã từ lâu Thông tấn xã Việt Nam vẫn coi anh em phóng viên bộ phận thông tấn quân sự như người nhà.
Từ những ngày đầu tháng 3/1975 tin tức chiến thắng từ chiến trường Tây Nguyên và trận đánh giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột đã làm nức lòng hậu phương. Tôi và đồng nghiệp Hoàng Thiểm rời Hà Nội lên đường trong không khí ấy. Chúng tôi vốn cùng một tổ học tập ở trường đại học, hiểu nhau như anh em. Vào quân đội, tôi được phong quân hàm thiếu úy, Hoàng Thiểm chuẩn úy. Anh Thiểm lớn tuổi hơn nên trong công việc chúng tôi đều thảo luận với nhau kỹ lưỡng từng vấn đề nhỏ như đi đâu, theo đơn vị nào? Phối hợp với các đồng nghiệp ở Thông tấn xã Việt Nam gửi tài liệu về Hà Nội ra sao để bảo đảm nhanh nhất, an toàn nhất. Thời nào cũng vậy, đặc trưng nghề báo là thông tin nhanh nhạy, kịp thời, chính xác. Viết rồi mà không đưa về tòa soạn thật nhanh để Ban biên tập khai thác, xử lý là coi như “công toi”.
Rạng sáng ngày 26/3/1975, chúng tôi cùng một nhóm phóng viên Thông tấn xã Việt Nam tiến vào Huế; ghi lại được những tấm hình đường phố trong những giờ phút giải phóng đầu tiên, khi tiếng đạn pháo vẫn nổ ở nhiều nơi, rồi hình ảnh nữ du kích và bộ đội giương cao lá cờ giải phóng trên chiếc xe tiến vào Ngọ Môn. Sau gần 4 - 5 giờ tác nghiệp, theo quy định chúng tôi gặp nhau và cử người đưa tài liệu, phim ảnh về Hà Nội.
Sáng 29/3/1975, chúng tôi đã có mặt ở Đà Nẵng. Tôi, anh Lâm Hồng Long, anh Trần Mai Hưởng và anh Hoàng Thiểm vượt đèo Hải Vân bằng xe Honda. Dọc đường thỉnh thoảng những loạt súng của tàn quân địch lại réo qua sườn núi. Buổi sáng hôm ấy trời Đà Nẵng lất phất mưa, khi chúng tôi đến thì bộ binh và xe tăng Quân đoàn II (nay là Binh đoàn 12) cùng lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã có mặt ở thành phố, chiếm giữ sân bay Đà Nẵng.
Gần một tháng sau đó, tôi và anh Hoàng Thiểm lại được lệnh chủ động tìm kiếm, liên hệ với Quân đoàn II đang tiến về Sài Gòn. Bao giờ cũng vậy, phóng viên mặt trận luôn được cán bộ, chiến sĩ các cánh quân của ta ưu ái, giúp đỡ, tạo điều kiện tác nghiệp.
Rạng sáng ngày 30/4/1975, sau khi đã vượt căn cứ Nước Trong, chúng tôi theo xe tăng của bộ đội ta tiến dọc đường 15, vượt cầu xa lộ sông Đồng Nai qua các ổ đề kháng của địch và nhằm thẳng hướng nội thành. 11h24 ngày 30/4/1975, chúng tôi có mặt trước Dinh Độc lập, ghi lại những tấm hình lịch sử. Sau đó nhờ xe của một cảnh sát thuộc chính quyền Sài Gòn cũ, chúng tôi nhanh chóng đến sân bay Tân Sơn Nhất, chụp được tấm hình nữ biệt động Nguyễn Trung Kiên (tức cô Nhíp) dẫn đầu chiếc xe tăng đánh chiếm sân bay.

Xe tăng quân Giải Phóng ở Dinh Độc Lâp trưa 30/4/1975 (Ảnh: Ngọc Đản)
Ngay chiều hôm đó, chúng tôi động viên người cảnh sát kể trên “hãy lập công cho cách mạng” bằng cách đưa tôi và anh Hoàng Thiểm về Đà Nẵng. Một mình anh này lái xe suốt tối 30/4/1975 đến rạng sáng 2/5/1975 (trên đường chỉ nghỉ vài giờ) đưa chúng tôi về Đà Nẵng. Ngay buổi trưa hôm đó, anh Thiểm theo máy bay đưa tài liệu, phim ảnh ra Hà Nội. Báo Nhân Dân và Quân đội Nhân dân ngày 3/5/1975 đã đăng những hình ảnh đầu tiên về giờ phút lịch sử ngày 30/4/1975.
Trong cuộc đời gần 50 năm làm báo, tôi may mắn và tự hào có nhiều năm tháng là phóng viên chiến trường. Năm 1979, tôi là phóng viên đến với nhiều đơn vị chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang. Năm 1984, tôi được theo chân đoàn quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Năm 1988, tôi cùng các đồng nghiệp có mặt ở Trường Sa, đưa tin về sự kiện bảo vệ chủ quyền anh dũng của cán bộ, chiến sĩ ta…
Sau này, nhiều bạn trẻ mới vào nghề báo hỏi tôi: Sự khác biệt của phóng viên chiến trường, phóng viên mặt trận là gì? Tôi đã trả lời bằng những câu chuyện từ thực tiễn.
Trước hết, nhà báo dù tại ngũ hay dân sự thì khi vào chiến trường phải xác định mình là người chiến sĩ. Anh là nhà báo nhưng cũng phải lo cuộc sống, chiến đấu hàng ngày như một người chiến sĩ. Phải tự mang vác lương thực, thực phẩm, đào hầm... Lớp phóng viên tiền phương của Tổng cục chính trị QĐNDVN vào mặt trận Quảng Trị - Thừa Thiên Huế năm 1972, mỗi người phải đeo ba lô nặng hơn 30kg, hành quân mấy ngày đêm, trèo đèo, lội suối, vượt bom đạn.
Trong những cánh rừng bị bom đạn cày xới, trời oi bức, mang vác nặng như vậy, chúng tôi thở không ra hơi. Bỏ bớt đi dù chỉ cái cúc áo hay vỏ hộp đựng phim ảnh là đôi vai của mình đã thấy nhẹ, dễ chịu hơn. Hầm trú ẩn thường ngày một người chui vào đã thấy chật chội, vậy mà khi gặp bom đạn kẻ thù cả hai người đều chui lọt vào. Là phóng viên, bên cạnh nhiệm vụ tác nghiệp, chúng tôi cũng phải đi tải gạo, mang vác nhu yếu phẩm phục vụ cho mặt trận.
Những chuyện gian khổ như ăn lương khô mốc, gạo sấy hẩm hiu nghẹn cứng ở cổ họng, dùng mũ cối lọc nước bẩn, bùn đất nhão nhoẹt để uống... là chuyện thường ngày. Nếu không bị thương vì bom đạn và không bị bệnh tật dọc đường hành quân là cảm thấy may mắn lắm rồi. Dù gian khổ, nguy hiểm thế nào, không một phút giây rời báu vật của mình là khẩu súng ngắn, sổ tay, bút ghi chép, phim ảnh.
Cuộc sống hàng ngày của phóng viên tiền phương đích thực là một chiến sĩ. Gian khổ, vất vả, chịu đựng ác liệt của bom đạn của nhà báo và người chiến sĩ là như nhau. Không rèn luyện, không giữ vững ý chí chiến đấu không thể trở thành phóng viên mặt trận.
Phóng viên chiến trường là người chiến sĩ đặc biệt, không trực tiếp chiến đấu nhưng phải có mặt ở trận địa, nơi diễn ra các trận đánh ác liệt, nóng bỏng nhất. Đã có nhiều phóng viên hy sinh khi đang tác nghiệp nơi chiến hào, hay trên các cứ điểm mà cán bộ, chiến sĩ ta vừa xông lên đánh chiếm, hay bảo vệ.
Tôi đã bám sát nhiều tiểu đội, trung đội của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 và Trung đoàn 95 của Sư đoàn 325 ở thành cổ Quảng Trị. Vừa thoát khỏi chiến hào, công sự chiến đấu của họ thì kẻ địch đã dùng hỏa lực đánh nát. Trong những lần bám theo các anh hùng Vũ Trung Thướng, Mai Ngọc Thoảng để khai thác tài liệu, chúng tôi từng bị máy bay Mỹ thả bom vào đội hình hành quân, nhờ may mắn mà thoát chết.
Phóng viên chiến trường chứng kiến, gặp gỡ, tìm hiểu cuộc sống, chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ ta tại mặt trận. Những bài viết, bức ảnh báo chí đầy ắp các chi tiết sinh động với chân dung những con người cụ thể, phản bác những thông tin dối trá của đối phương. Năm 1972, lớp phóng viên tiền phương chúng tôi ra mặt trận do Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị QĐNDVN quản lý, nhưng về nghiệp vụ, tin tức bài vở và ảnh đều phát qua Thông tấn xã Việt Nam - một cơ quan thông tấn quốc gia, nên các tác phẩm báo chí của chúng tôi được các cơ quan báo chí chọn lựa, sử dụng rộng rãi. Đài Tiếng nói Việt Nam cũng giới thiệu nhiều bài viết của chúng tôi, tạo nên hiệu ứng tức thì, truyền cảm mạnh mẽ đến cán bộ, chiến sĩ các đơn vị ở mặt trận cũng như hậu phương.
Như đã nói ở trên, phóng viên chiến trường là người trực tiếp tác nghiệp tại mặt trận, nơi diễn ra các trận đánh tấn công và phòng thủ của bộ đội ta. Xét về mặt nghiệp vụ là phải "tác chiến" tại chỗ nên phải có phong cách chủ động tìm kiếm thông tin, ghi chép hàng ngày, làm quen với chỉ huy và chiến sĩ các đơn vị để hiểu rõ hoàn cảnh cuộc đời cầm súng của họ. Hiểu được sự thông minh, sáng tạo, linh hoạt của cán bộ, chiến sĩ ta. Nắm được tình hình hoạt động và âm mưu của kẻ thù cũng rất quan trọng, giúp cho phóng viên luôn chủ động, phản ứng theo mục tiêu chiến đấu của các đơn vị cũng như những trường hợp ngẫu nhiên xảy ra.
Khi đến với các đơn vị, nhất là ở những "điểm nóng” thì phải khẩn trương, thu thập tin tức nhanh chóng, nếu không sẽ rất khó khi tác chiến xảy ra. Các tin tức thu thập từ cán bộ, chiến sĩ có thể chưa được đầy đủ và cần bổ sung. Chúng tôi phải tiếp cận người có thể cung cấp thông tin bao quát, làm sao để sáng tỏ các sự kiện, các trận đánh, phản ánh sinh động cán bộ, chiến sĩ ta đánh giặc dũng cảm, ngoan cường và sáng tạo.
Bên cạnh những bản tin thời sự, lại có những nhận xét, suy nghĩ, đánh giá làm tư liệu về sau, cho phép ghi chép khôi phục bầu không khí vốn có ở mặt trận, ở các đơn vị, nơi diễn ra cuộc chiến đấu.
Ngày nay sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm đổi thay bộ mặt và chất lượng thông tin báo chí, nhất là khả năng truyền tải, đưa tin cập nhật đến từng phút, từng giây các sự việc, sự kiện nổi bật, sức lan tỏa khắp toàn cầu. Internet đã trở thành một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để trao đổi, chia sẻ thông tin với rất nhiều tiện ích.
Có thể nói chúng ta đang được sống trong môi trường thông tin đầy đủ, nhanh nhạy, kịp thời nhất từ trước đến nay. Các cơ quan báo chí, truyền thông đã sử dụng những kĩ thuật hiện đại để nhận và gửi tin tức khắp thế giới.
Nhưng ở vào thời điểm thập niên 1970 của thế kỷ trước, phóng viên chiến trường của Việt Nam đưa tin phụ thuộc vào các phương tiện kỹ thuật thô sơ. Các máy điện báo, têlêtuýp, các trạm quân bưu đặt ở sở chỉ huy cấp Quân khu, Bộ Tư lệnh mặt trận - thường nằm xa nơi xảy ra chiến sự, có khi phải đi bộ hàng mấy ngày đường.
Các phóng viên phải tìm mọi cách liên lạc để gửi bài ảnh, có người đã hy sinh trên đường về Sở chỉ huy mặt trận để gửi tin tức. Mỗi khi gặp được cán bộ, chiến sĩ nhận lệnh ra Hà Nội là chúng tôi bằng mọi cách liên hệ, “cầu cứu” họ giúp đỡ để đưa những cuộn phim bọc kĩ, được chú thích tỉ mỉ, hoặc các bài viết về tòa soạn – nếu gửi bình thường có khi phải mất cả tháng trời mới về đến Hà Nội.
Thế giới đã và đang chứng kiến những cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ, cùng với đó là “chiến tranh thông tin” diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Tôi nghĩ rằng phẩm chất và phong cách làm báo chiến trường khi được tiếp biến để phù hợp với thời đại thông tin thì vẫn còn nguyên giá trị.
Tác giả: TS Đậu Ngọc Đản là sinh viên khóa I của Trường Tuyên huấn Trung ương, nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Ông là một trong các phóng viên đầu tiên có mặt ở Dinh Độc lập vào trưa ngày 30/4/1975. Hơn 50 năm làm báo, ông từng công tác tại Thông tấn Quân sự, báo Nhân dân, Đài truyền hình Việt Nam.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!