Chuyên gia Bệnh viện K giúp bạn tầm soát sớm ung thư gan
(Dân trí) - Ung thư gan hiện nay vẫn là nỗi ám ảnh với nhiều người vì tiên lượng khó hơn các bệnh ung thư khác và đặc biệt đây là căn bệnh đang gia tăng ở Việt Nam.
Tại Việt Nam, ung thư gan là bệnh ung thư phổ biến số một. Đây cũng là bệnh ung thư khó phát hiện ở giai đoạn sớm, có tiên lương xấu. Năm 2020 nước ta có thêm 26.418 ca mắc ung thư nhưng cũng ghi nhận 25.272 ca tử vong.
Ung thư gan giai đoạn sớm ít có triệu chứng nên thường phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn khi đã có biến chứng. Ở giai đoạn sớm người bệnh thường có cảm giác: chán ăn, đau, nặng tức vùng hạ sườn phải (HSP), trướng bụng, vàng da, củng mạc mắt,…
Trong giai đoạn muộn hơn của ung thư gan, các triệu chứng trên rõ ràng hơn, hoặc xuất hiện thêm các biến chứng của bệnh: sụt cân; buồn nôn; vàng da; củng mạc mắt; đi ngoài phân trắng, bạc màu.....
Tuy nhiên để xác định rõ để phát hiện sớm ung thư gan, bác sĩ sẽ chỉ định:
Xét nghiệm máu
Alpha - fetoprotein (AFP) có thể tăng lên ở 70% bệnh nhân ung thư gan nhưng cũng có thể bình thường. Khi AFP tăng cao là dấu hiệu nghi ngờ lớn với ung thư gan. Tuy nhiên, AFP có thể tăng trong xơ gan và viêm gan mạn.
Ngoài AFP, xét nghiệm khác cũng có thể được dùng để phát hiện ung thư gan là DCP (Des - gamma-carboxyprothrombin) hay còn gọi là PIVKA-II cũng có độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán ung thư gan.
Chẩn đoán hình ảnh
Chụp cắt lớp vi tính đa dãy có tiêm thuốc cản quang hoặc cộng hưởng từ (MRI) có dùng thuốc đối quang từ có thể được chỉ định để đánh giá động học của u gan. Các phương pháp này cho phép đánh giá tương đối chính xác tính chất của u gan cũng như số lượng, vị trí, liên quan của u gan với các thành phần quan trọng khác trong gan (mạch máu, đường mật).
Ngoài ra còn giúp đánh giá tình trạng di căn tại gan, ngoài gan của ung thư gan. Tuy nhiên với các tổn thương kích thước nhỏ (< 1cm) thường khó đánh giá tính chất.
Sinh thiết gan
Sinh thiết gan không cần thiết trong mọi trường hợp đặc biệt là khi các dấu ấn miễn dịch và chẩn đoán hình ảnh là rõ ràng cho việc chẩn đoán ung thư gan. Do đó sinh thiết gan chỉ nên chỉ định khi thật sự cần thiết bởi việc sinh thiết cũng có những rủi ro nhất định: nhiễm trùng, chảy máu, gieo rắc tế bào ung thư theo đường đi của kim sinh thiết (1-3% trường hợp).
Nếu sinh thiết dương tính sẽ cho chẩn đoán xác định ung thư gan. Nếu sinh thiết âm tính sẽ khuyến cáo thăm khám lại bằng chẩn đoán hình ảnh, thậm chí sinh thiết lại sau khoảng thời gian 2-3 tháng.
Ung thư gan là bệnh có tiên lượng xấu. Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bệnh tiên lượng tốt khi bệnh phát hiện ở giai đoạn sớm, thể trạng bệnh nhân tốt, không kèm theo các bệnh lý về gan (xơ gan, viêm gan virus…). Bệnh tiên lượng xấu khi phát hiện ở giai đoạn muộn, thể trạng kém, kèm thêm các bệnh lý về gan (xơ gan, viêm gan virus mạn tính…).
Theo TS.BS Phạm Tuấn Anh, Phó Trưởng khoa Điều trị yêu cầu, Bệnh viện K, điều trị ung thư gan là điều trị đa mô thức, việc lựa chọn phương pháp điều trị ung thư gan phải phụ thuộc vào mức độ lan rộng của tổn thương và tình trạng xơ gan, các phương pháp điều trị ung thư gan phổ biến bao gồm: phẫu thuật, ghép gan, phá hủy u tại chỗ, nút hóa chất động mạch gan, xạ trị, hóa trị hay điều trị nhắm trúng đích....