Căn bệnh gây "chết đuối trên cạn", tiên lượng xấu hơn cả ung thư
(Dân trí) - Với căn bệnh này, thời gian sống thêm từ lúc chẩn đoán trung bình chỉ 2,5 năm. Trong khi đó, người bệnh ung thư phổi nếu được phát hiện sớm, tỷ lệ sống thêm 5 năm đến 80%.
Bệnh phổi kẽ là nhóm bệnh lý khá đa dạng, mặc dù không phải nhóm bệnh mới xuất hiện nhưng thực tế chưa được quan tâm và hiểu biết một cách tường tận tại Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới.
Nhóm này gồm rất nhiều bệnh lý khác nhau, tỷ lệ mắc không cao, triệu chứng không đặc hiệu. Nhiều bệnh có những đặc điểm về triệu chứng lâm sàng và hình ảnh học khá tương tự với nhiều bệnh lý hô hấp khác nên việc tiếp cận chẩn đoán và phân loại là một thách thức với các bác sĩ lâm sàng. Thêm vào đó, việc điều trị cũng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn về thuốc men, phương tiện, giá thành cao.
Về mặt dịch tễ, tỷ lệ mắc của từng bệnh phổi kẽ không cao, nhưng tổng hợp chung cả nhóm bệnh phổi kẽ cũng gây ảnh hưởng lên một số lớn người bệnh với tần suất mắc 76/100.000 dân tại Châu Âu và 74,3/100.000 dân ở Hoa Kỳ.
Tuy nhiên do các biểu hiện của bệnh phổi kẽ trên lâm sàng là không đặc hiệu, việc chẩn đoán căn nguyên và phân loại bệnh phổi kẽ còn là thách thức lớn với các bác sĩ trên lâm sàng.
Có 3 bệnh phổi kẽ phổ biến nhất là Sarcoidosis, Bệnh phổi kẽ liên quan đến bệnh mô liên kết và Xơ phổi vô căn, với tỷ lệ tương ứng là 30,2; 12,1; 8,2 ca trên 100.000 dân.
Trong nhóm này, có một số bệnh phổi kẽ, nếu không được chẩn đoán và điều trị đúng cách, tổn thương phổi có thể không hồi phục và tiến triển thành mạn tính, gây xơ phổi và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng hô hấp, cuộc sống của người bệnh.
Theo PGS.TS Nguyễn Viết Nhung - Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, tại Việt Nam, trong những năm gần đây nhờ sự tiến bộ của các phương tiện thăm dò chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt chụp cắt lớp vi tính lồng ngực độ phân giải cao, tỷ lệ phát hiện bệnh nhân viêm phổi kẽ tăng lên đáng kể.
Người bệnh phổi kẽ tại Việt Nam thường được phát hiện muộn khi đã có biến chứng của bệnh như suy hô hấp, tâm phế mạn với các biểu hiện xơ hóa nhu mô phổi không hồi phục trên phim chụp HRCT. Bên cạnh những bệnh phổi kẽ thường gặp như IPF, CTD-ILD, sarcoidosis, căn nguyên về nhiễm trùng và nghề nghiệp cũng là nhóm gây bệnh phổi kẽ tại Việt Nam.
"Có những trường hợp mắc bệnh phổi kẽ tiến triển nhanh, tiên lượng còn xấu hơn cả ung thư. Do đó, việc chẩn đoán sớm và chính xác giúp làm chậm sự tiến triển của bệnh, tăng hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh là rất cần thiết", PGS Nhung cho hay.
PGS Nhung lý giải, bệnh phổi kẽ thời gian sống thêm từ lúc chẩn đoán trung bình chỉ 2,5 năm. Trong khi đó, người bệnh ung thư phổi nếu được phát hiện sớm, tỷ lệ sống thêm 5 năm đến 80%. Nhiều bệnh trường hợp ung thư ở giai đoạn muộn nhưng được điều trị đích, có thể sống 3 năm, thậm chí nhiều hơn.
Bên cạnh đó, bệnh có thể gặp ở trẻ nhỏ (bẩm sinh như xơ nang phổi) nhưng đa số bệnh nhân từ 40 tuổi. Vì vậy, những người có tình trạng khó thở nhưng không rõ nguyên nhân cần lưu ý và đến cơ sở y tế thăm khám kịp thời. Bởi đây là triệu chứng chỉ điểm của bệnh phổi kẽ.
Chuyên gia này cũng nhận định rằng, bệnh nhân tử vong do bệnh phổi kẽ cũng như "chết đuối ở trên cạn".
PGS Nhung dẫn chứng, Khoa Hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương hàng ngày điều trị cho từ 70 - 100 bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh phổi mô kẽ khoảng 6-7% tổng số bệnh nhân trong khoa.
Để giải quyết tốt nhất với bệnh phổi kẽ, PGS Nhung nhấn mạnh, cần có định hướng chiến lược như: Áp dụng tối ưu các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, hội đồng đa chuyên khoa cho chẩn đoán và điều trị bằng một mạng lưới chuyên khoa từ Trung ương đến tuyến cơ sở để phát hiện sớm và chăm sóc hiệu quả lâu dài, bền vững.
Với chiến lược này, người bệnh vừa có thể được chẩn đoán và điều trị đúng mà không làm quá tải ở tuyến Trung ương.
Vì vậy, Chương trình bệnh phổi kẽ được xây dựng triển khai dựa trên mạng lưới phòng chống lao và bệnh phổi để người dân tiếp cận với dịch vụ chẩn đoán và điều trị bệnh.
Bên cạnh đó, đào tạo, chuyển giao công nghệ cho bệnh viện thuộc mạng lưới, thúc đẩy hợp tác quốc tế, đánh giá tình tình dịch tễ bệnh phổi kẽ của Việt Nam.
Chương trình cũng vận động chính sách, truyền thông và huy động xã hội để người dân biết tiếp cận bệnh phổi kẽ và bảo hiểm y tế hỗ trợ cho các kỹ thuật chẩn đoán và thuốc điều trị bệnh phổi kẽ.