Béo phì người lớn và lứa tuổi học đường: Tăng chóng mặt

Hồng Hải

(Dân trí) - Tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7,4% (9,8% ở thành thị, 5,3% ở nông thôn) và 19% ở trẻ em lứa tuổi học sinh. Tỷ lệ người trưởng thành thừa cân béo phì là 19% vào năm 2020.

Ngày 26/12, tại Hội nghị "Vận động đầu tư và tăng cường phối hợp liên ngành cho hoạt động của chiến lược quốc gia dinh dưỡng 2024 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2045", PGS.TS Trương Tuyết Mai, Phó  Viện trưởng Dinh dưỡng Quốc gia cho biết, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe toàn dân.

Béo phì người lớn và lứa tuổi học đường: Tăng chóng mặt - 1

PGS.TS Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia (Ảnh: Song Tú).

Cụ thể, Việt Nam đã cơ bản đạt được các mục tiêu về giảm tình trạng thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ, trẻ em.

Kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng cho thấy tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi (chiều cao/tuổi) đang giảm dần, từ 29,3% năm 2010 giảm xuống dưới 18,9% vào năm 2022. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ học đường (5-19 tuổi) vẫn còn ở mức 14,8%.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, khi  tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi chênh lệch mạnh giữa các vùng miền.

Theo đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ dưới 5 tuổi vùng miền núi phía Bắc là cao nhất (37,4%), sau đó là vùng Tây nguyên (28,8%). Tỷ lệ thể thấp còi ở trẻ em là người dân tộc thiểu số (31,4%) vẫn cao gấp 2 lần so với nhóm trẻ em là người kinh (15,0%).

Tỷ lệ trẻ em là người dân tộc thiểu số nhẹ cân cũng lớn hơn gấp 2,5 lần (21% so với 8,5%) so với trẻ em là người kinh.

Bên cạnh đó, sự gia tăng nhanh chóng tình trạng thừa cân béo phì. Trong 10 năm, từ 2010-2020, tình trạng thừa cân, béo phì tăng vọt, từ 8,5% lên 19%.

Cụ thể, tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7.4% (9,8% ở thành thị, 5,3% ở nông thôn) và 19% ở trẻ em lứa tuổi học sinh. Tỷ lệ người trưởng thành thừa cân béo phì là 19% vào năm 2020. 

Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng (đặc biệt là tình trạng thiếu kẽm, thiếu máu) ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ tuổi sinh đẻ còn ở mức cao.

Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng đến 2020, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam là 19,6%. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai và không có thai tương ứng 25,6% và 16,2%.

Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới 5 tuổi là 9,5%. Tỷ lệ thiếu kẽm đặc biệt rất cao ở trẻ dưới 5 tuổi là 58% năm 2020; phụ nữ có thai là 63,5%.

Theo Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) và Ngân hàng Thế giới, chỉ cần đầu tư 1 USD chi phí dinh dưỡng cho trẻ trong 1.000 ngày đầu đời thì tương lai sẽ thu lại được 18 USD.

Trẻ em được điều trị khỏi thấp còi có khả năng thoát khỏi đói nghèo tới 33% khi trưởng thành, góp phần cho tăng trưởng GDP quốc gia từ 3-10%.

Tại hội nghị, các đại biểu cho rằng, để thực hiện thành công các chỉ tiêu, mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng đến năm 2030 một cách bền vững, cần tiếp tục huy động các cấp các ngành, tổ chức quốc tế, xã hội và người dân để đầu tư về cả về chính sách và nguồn lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp cho dinh dưỡng.

Nhiều giải pháp được đề xuất, như đưa dinh dưỡng vào luật phòng bệnh, được chi trả bảo hiểm y tế; xây dựng tiêu chuẩn chức danh dinh dưỡng tại cộng đồng; nhãn cảnh báo, thực thi hiệu quả các chính sách hiện có.

Bên cạnh đó, nâng cao năng lực, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dinh dưỡng.

Tiếp tục giảm sự chênh lệch vùng miền, dân tộc về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi; cải thiện tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng (đặc biệt là tình trạng thiếu kẽm, thiếu máu) ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ tuổi sinh đẻ.

Tập trung hơn nữa để kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì trẻ 5 - 19 tuổi và người trưởng thành vùng thành phố, thành thị...

Đẩy mạnh hoạt động dinh dưỡng học đường, ngành nghề đặc thù, người cao tuổi, nữ vị thành niên, dinh dưỡng tiết chế bệnh viện...