Tây Bắc mùa dã quỳ nở
(Dân trí) - Trước chuyến đi Tây Bắc lần này, tôi lầm tưởng hoa dã quỳ chỉ mọc ở miền Trung - Tây Nguyên. Nhưng không phải thế, cả một vùng Tây Bắc, dã quỳ nở rộn ràng hai bên đường. Thứ hoa dại mang màu vàng rực ấy có sức cuốn hút lữ khách kỳ lạ.
Kỳ 1: Nơi cái rét tung hoành
Tây Bắc thường được coi là đẹp nhất vào mùa xuân, lúc ấy dọc đường trăm hoa đua nở. Vì coi như thế nên thiên hạ thường tìm lên Tây Bắc vào mùa xuân hoặc mùa hạ, chứ chẳng mấy ai đi vào lúc miền Bắc rét đậm như tôi. Đi rồi mới vỡ lẽ, cuộc sống Tây Bắc luôn đầy màu sắc, và ấm áp ngay cả trong những ngày đông giá.
Thảo Nguyên - thị trấn mờ sương
Từ Hà Nội theo quốc lộ 6, đi mải mốt hơn 200km thì lên đến Mộc Châu. Mặc dù vẫn biết là tôi đang lên Tây Bắc trong những ngày rét nhất của mùa đông năm nay, đã chuẩn bị rất nhiều quần áo rét, nhưng tôi không tưởng tượng được cái rét ở Mộc Châu lại ghê gớm đến thế.
Chiều tối, Quốc lộ 6 mờ ảo trong sương chiều bảng lảng. Những con đèo quanh co không nhìn rõ đường. Xe ngược chiều đã bắt đầu phải bật đèn pha. Những người Mông đi lấy củi cũng đã về, gùi trên lưng những gánh củi nặng trĩu...
Hoàng hôn buông xuống thị trấn Thảo Nguyên. Vẻ u ám của tiết trời mùa đông không làm giảm đi sự tấp nập ở đây. Những công nhân làm việc trong nông trường chè và các nông trường bò sữa trong vùng hối hả mua thực phẩm cho bữa cơm chiều. Anh bạn đồng nghiệp đã lên Thảo Nguyên cách đây 6 năm, giờ tìm lại vào một nhà người quen, anh gần như không xác định được đường. Khác nhiều quá, thị trấn nhỏ bé giữa thảo nguyên quạnh quẽ ngày nào giờ trở nên thật sầm uất, xe cộ đi lại như mắc cửi.
Cuộc tìm kiếm vào nhà một người quen dần trở nên vô vọng. Anh bạn nói lại: Đó là một quá trà nhỏ, sạch sẽ và bán trà rất ngon. Trà ngon tới mức lần đầu lên Thảo Nguyên, anh chỉ ngồi uống một chén trà cùng ông chủ quán trải đời thì bao nhiêu mệt nhọc dặm đường đều tiêu tán.
Thật đáng tiếc, cả hai chúng tôi vòng đi vòng lại tới mấy lượt nhưng rốt cuộc chẳng thấy quán trà ngày xưa đâu. Có lẽ ông chủ đã đổi nghề, hoặc đã chuyển đi nơi khác sinh sống.
Thị trấn Thảo Nguyên cách thị trấn Mộc Châu khoảng 7km. Mộc Châu thì đã trông ra dáng phố lắm, không còn nhiều nét cục mịch thôn dã như ở Thảo Nguyên. Đêm ở Thảo Nguyên sương xuống đậm đặc và rét khủng khiếp. Cái lạnh như toát từ trong xương trong thịt ra nên dù có mặc bao nhiêu áo, chúng tôi vẫn rùng mình.
Phải đến 9-10h sáng thì sương ở đây mới hầu như tan hết. Một sớm đông, cái gì ở đây cũng trở nên tinh khôi hơn bao giờ hết. Những dãy núi xám ngoét tôi nhìn thấy tối hôm trước, giờ trở nên xanh đẫm rất đẹp.
Đêm ở bản Phêng Đất B
Mùa này, nhiệt độ ở Tây Bắc vào những hôm nắng ráo luôn thấp hơn dưới xuôi tới vài ba độ. Đường 6 cũ, đoạn từ Tuần Giáo lên tới Lai Châu dài 80km, xấu kinh khủng. Con đường giống như hoang lộ hơn là một quốc lộ. Gần một ngày đường, chúng tôi chỉ thấy duy nhất một chiếc xe U-oát chạy vội vã về phía Tuần Giáo, xóc tưng tưng.
Đường rất hẹp, lòng vòng xuyên qua các bản làng. Những đứa trẻ, thậm chí cả người lớn, luôn reo lên và giơ tay chào thân thiện mỗi khi thấy chúng tôi. Đây không phải lần đầu tôi lên Tây Bắc, nhưng những cảm xúc và tình cảm về những con người thân thiện ấy vẫn rất mới mẻ, tựa hồ như giữa tôi và họ đã là những người bạn thân thiết.
Phêng Đất B là một bản của người Thái, nằm bên cạnh một dòng suối xanh biếc. Dòng suối to và kỳ vỹ tới mức lúc đầu, tôi ngợ là sông Đà. Chiều tà, cả bản có ba chục nóc nhà sàn nằm sát nhau, gọn gàng trong một trảng đất, đẹp và nên thơ tới kỳ lạ, tới mức người bạn đồng nghiệp của tôi quyết định sẽ ngủ đêm tại đây.
Một góc bản Phêng Đất B. |
Đường từ Quốc lộ xuống bản gần như dựng đứng, rất bé. Thế nhưng những gia đình khá giả trong bản vẫn mua xe máy và vẫn lên lên xuống xuống hàng ngày. Họ nói, con đường này họ đã quen thân với từng viên đá cuội. Những người già chỉ cho chúng tôi tới nhà trưởng bản. Phải được sự đồng ý của nhân vật này thì những viễn khách như chúng tôi mới được lưu lại qua đêm.
Trưởng bản là anh Lò Văn Thương. Chúng tôi ngồi trong nhà anh Thương tới lúc trời tối mịt thì anh về, trông anh còn rất trẻ và vạm vỡ. Anh Thương vào rừng tìm trâu, chuẩn bị cho vụ cấy đông - xuân. Anh nói, “ở đây trâu nhà ai cũng thả trong rừng hết, khi cần mới vào rừng tìm”. Những con trâu không bao giờ bị lạc ấy là tài sản của cả bản. Vậy nên đã bao đời nay, ở đây chẳng ai mất trâu bao giờ.
Buổi tối, anh Thương thết đãi chúng tôi món thịt vịt. Anh trấn an một cách rất hiểu biết: “Nhà báo đừng ngại cúm. Thứ nhất ở đây không có dịch, vịt gà khoẻ là ăn tốt. Thứ hai, luộc sôi kỹ lắm rồi. Nếu có cúm cũng chẳng con virus nào sống được”.
Người dân ở bản này sống theo kiểu tự cung tự cấp. Chợ rất xa, đi mất cả buổi mới tới. Bởi vậy hoạ hoằn mới có người đi chợ. Cá dưới suối thì nhiều vô kể. “Vào mùa nhiều cá, chúng tôi ăn tới phát ngán - anh Thương kể - thậm chí thèm rau hơn thèm cá. Nhiều lắm, nhưng dân bản không dùng kích điện đánh bắt. Tôi nói, nếu dùng kích điện thì chẳng mấy nỗi mà hết cá. Vậy là bà con nghe. Hôm nào vào mùa cá các anh lại lên đây, cá suối nấu canh chua thì hết ý”.
Đến hơn 8 giờ tối thì căn nhà chộn rộn tiếng người. Mấy đứa trẻ trong bản lục tục kéo đến nhà anh xem phim. Cả bản có vài chiếc TV, mà TV màu hẳn hoi. Điện được kéo từ nguồn thuỷ điện ngoài suối. Vợ chồng anh Thương mau mắn đi dọn dẹp cho chúng tôi một chỗ ngủ, có cả đệm.
Đêm nằm bản, chăn ngắn, quấn được đầu thì hở chân. Có bao nhiêu quần áo rét, tôi mặc cả vào người. Ở xó bếp, đống lửa cháy âm ỉ cũng chẳng xua cái lạnh đi được là bao. Cả đêm tôi nằm xoay xó với chiếc chăn ngắn ngủn. Nhà sàn, gió đại ngàn thổi vào từng cơn rét thấu óc. Anh Thương lúc đầu còn nói chuyện được vài ba câu, sau rồi giọng anh trở nên đứt quãng và tiếng ngáy bắt đầu đều đều. Chắc hẳn công việc ban ngày đầy mệt nhọc khiến cho tay lực điền ấy đắp ít chăn hơn tôi mà vẫn ngủ ngon lành, không hề thấy lạnh.
Cả đêm hôm ấy, chúng tôi hầu như không ngủ được, phần vì lạnh, phần vì những câu chuyện về sông Đà, về phong tục người Thái mà anh Thương kể lúc chập tối cứ mãi ám ảnh. Con sông Đà duyên nợ gắn với cả cuộc đời những người Thái ven sông là cả một câu chuyện dài...
(Còn nữa...)
Kỳ 2: Sông Đà - người bạn tri âm
Lê Bảo Trung