Tổng Liên đoàn lý giải số dư hơn 43.000 tỷ đồng kinh phí công đoàn
(Dân trí) - Số dư nguồn tài chính công đoàn tích lũy đến hết năm 2023 khoảng 43.211 tỷ đồng, chủ yếu ở 3 cấp trên.
Số dư tài chính công đoàn 4 cấp
Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội tại Tổ về dự thảo Luật Công đoàn sửa đổi, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết, tính đến ngày 31/12/2023, số dư nguồn tài chính công đoàn tích lũy khoảng 43.211 tỷ đồng (tính theo niên độ tài chính).
Trong đó, số dư tài chính công đoàn tích lũy của công đoàn cơ sở là 12.373 tỷ đồng, chiếm 28,6% tổng số dư tài chính công đoàn tích lũy của hệ thống Công đoàn.
Số dư tài chính công đoàn tích lũy của 3 cấp còn lại là 30.837 tỷ đồng, trong đó, dư này tại Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở là 8.693 tỷ đồng. Dư tại Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lần lượt là 15.355 tỷ đồng và 6.789 tỷ đồng.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết, số dư tài chính công đoàn tích lũy tại 4 cấp tính đến hết niên độ tài chính (31/12 hàng năm) còn dư. Tuy nhiên, thực tế sau Tết Âm lịch, số kinh phí kết dư tại công đoàn cơ sở thường được sử dụng hết để chăm lo cho đoàn viên, người lao động tham gia trực tiếp.
Số dư tại cấp công đoàn cấp trên cơ sở được thực hiện điều tiết cho công đoàn cơ sở không có tích lũy đủ chi và chi hoạt động cho công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở.
Bên cạnh đó, dư tại cấp Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố và cấp Tổng Liên đoàn dùng để điều tiết cho các địa phương không có số dư tích lũy để chi và chi hoạt động của các cấp này.
2% kinh phí không phải "gánh nặng" của doanh nghiệp
Về việc tiếp tục kế thừa và duy trì quy định 2% kinh phí công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết, nguồn thu kinh phí công đoàn 2% được quy định từ năm 1957, được duy trì từ khi có Luật Công đoàn cho đến nay.
Việc Luật hóa và duy trì nguồn thu 2% kinh phí công đoàn thể hiện sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, thông qua việc xây dựng và thực thi chính sách của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động công đoàn; cụ thể hóa chủ trương của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 02-NQ/TW.
Cũng theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, kinh phí công đoàn được sử dụng tại công đoàn cơ sở là chủ yếu để trực tiếp chăm lo cho đoàn viên, người lao động.
Với mức tiền lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH hiện nay của người lao động khoảng 5,7 triệu/tháng, trong 1 năm doanh nghiệp phải đóng kinh phí khoảng 1,4 triệu đồng.
Khi đó, 75% số kinh phí công đoàn đã đóng này (khoảng 1 triệu đồng) sẽ được phân phối cho công đoàn cơ sở để chăm lo cho đoàn viên, người lao động dùng để thăm hỏi ốm đau, quà sinh nhật, quà Tết, hoạt động văn hóa, thể thao...
Dự thảo Luật Công đoàn sửa đổi đã bổ sung một số nhiệm vụ chi mới để phù hợp với thực tiễn như chi cho công đoàn cơ sở mà tổ chức, doanh nghiệp gặp khó khăn được miễn, giảm đóng kinh phí công đoàn
Bên cạnh đó, còn chi cho việc xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân thuê, xây dựng công trình công cộng cho đoàn viên, người lao động, thiết chế công đoàn chủ yếu từ số tài chính công đoàn tích lũy của cấp tỉnh, thành phố và tương đương và của Tổng Liên đoàn.
Kinh phí công đoàn được tính vào chi phí của doanh nghiệp, được hạch toán vào giá thành sản phẩm, tuy nhiên chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi phí của doanh nghiệp, trung bình khoảng 0,38%.
Qua khảo sát thực tế các doanh nghiệp FDI tham gia vào thị trường Việt Nam, vấn đề vướng mắc chủ yếu là do thủ tục hành chính hoặc xung đột thể chế, pháp luật. Có ít kiến nghị của doanh nghiệp liên quan đến nộp 2% kinh phí công đoàn.
"Do đó có thể cho rằng, vấn đề 2% kinh phí công đoàn không phải là gánh nặng cho doanh nghiệp", báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nêu rõ.
Từ những lý do nêu trên, việc tiếp tục duy trì mức đóng 2% kinh phí công đoàn như hiện nay Tổng Liên đoàn cho rằng là cần thiết để tổ chức công đoàn đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động công đoàn thực hiện tốt trách nhiệm chăm lo cho đoàn viên, người lao động.
Đồng thời, cũng để đảm bảo vai trò của công đoàn trong việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tuyên truyền, vận động người lao động thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, công tác, góp phần ổn định và phát triển cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.