“Huỵch toẹt” mảng tối ngành đường và thế đứng Hoàng Anh Gia Lai
(Dân trí) - Nhìn nhận việc nhập khẩu đường HAGL tại Lào là nhập về “sản phẩm Việt Nam”, đồng thời chỉ ra hàng loạt bất cập của ngành đường nội địa, Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú khuyên, các doanh nghiệp nên tập cạnh tranh với HAGL, tạo áp lực tái cơ cấu, mua bán, sát nhập.
Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú
Theo đó, doanh nghiệp này vay vốn từ ngân hàng Việt Nam, đã và đang tạo công ăn, việc làm cho hàng nghìn lao động của cả hai nước, trong đó đa phần các cán bộ kỹ thuật canh tác mía và vận hành nhà máy là người Việt Nam.
“Có thể nói một cách hình tượng rằng cách làm của HAGL thực chất chỉ là thuê đất của các bạn Lào và sản phẩm của HAGL là “sản phẩm của Việt Nam” – Thứ trưởng Tú cắt nghĩa. Nhà máy đường của HAGL đầu tư tại Lào thành công cũng có nghĩa là doanh nghiệp Việt Nam thành công và ngược lại nếu thất bại thì doanh nghiệp Việt Nam thất bại, ngân hàng Việt Nam mất tiền, người lao động Việt Nam mất việc và gánh nặng thuộc về nền kinh tế Việt Nam”.
Do vậy, theo ông, việc nhập khẩu đường của HAGL thực chất cũng chỉ là đường do Việt Nam sản xuất. Và thay vì trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất mía đường trong nước trước hết nên tập cạnh tranh với HAGL, tạo áp lực tái cơ cấu, mua bán, sát nhập nhằm mở rộng quy mô đầu tư, tăng cường hiệu quả. Đồng thời, thông qua đó, mở cửa, thu hút các nguồn mới để đổi mới kỹ thuật, công nghệ và nâng cao quy mô, năng suất.
“Tập cạnh tranh với một doanh nghiệp Việt Nam thành công thì ngành mía đường của Việt Nam mới đững vững được trước áp lực cạnh tranh với hàng nghìn doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới”, Thứ trưởng Công thương nhìn nhận.
Doanh nghiệp của bầu Đức đang "trên cơ" với "liên quân" Mía đường trong mắt Thứ trưởng Công thương
90 triệu dân Việt Nam tiêu thụ đường đắt gấp rưỡi, gấp đôi thế giới
Cũng tại bài viết này, Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú đã thẳng thắn chỉ ra hàng loạt vấn đề tồn tại của ngành mía đường Việt Nam.
Ông Tú thừa nhận rằng, kể từ khi cơ bản hình thành ngành mía đường Việt Nam thì Nhà nước đã luôn quan tâm quy hoạch, đầu tư hỗ trợ phát triển và bảo hộ bằng hàng rào thuế quan cao. Và đến thời điểm hiện tại ngành mía đường trong nước vẫn đang được Nhà nước bảo hộ ở mức độ khá cao và cao hơn nhiều so với các ngành hàng sản xuất quan trọng khác như dệt may, da giày, gạo, cà phê... Trong khi đó, kết quả lại không được như kỳ vọng.
Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú đã chỉ ra 4 bất cập trong ngành này, mà đầu tiên là giá thành quá cao. “Nhiều năm qua, 90 triệu người dân Việt Nam liên tục phải tiêu thụ đường ăn với giá cao gấp rưỡi, thậm chí có thời điểm gấp đôi so với thế giới. Tại thời điểm hiện tại, giá bán đường giao tại cửa các nhà máy trong nước đang cao khoảng gấp rưỡi giá đường ăn thế giới. Người dân Việt Nam không có quyền lựa chọn nào khác. Và tình trạng đó chỉ có lợi cho một bộ phận nhỏ trong xã hội” – ông Tú cho hay.
Nguyên nhân của thực trạng này, theo Thứ trưởng Tú là việc Hiệp hội Mía đường và các doanh nghiệp mía đường không quan tâm đúng mức đến công tác nghiên cứu để đổi mới và phát triển ngành. Thêm vào đó, nhiều năm qua, Hiệp hội và các doanh nghiệp mía đường cũng đã không phổ biến được các giống mía mới, năng suất cao tại Việt Nam để tăng năng suất và hiệu quả canh tác.
Theo đó, năng suất trồng mía bình quân của Việt Nam hiện nay là 60 tấn mía/ha trong khi năng suất của Thái Lan xấp xỉ 100 tấn/ha, của HAGL (tại Lào) là 120 tấn/ha. Ông Tú đưa ra so sánh: trong khi các doanh nghiệp mía đường trong nước không quan tâm đầu tư vùng nguyên liệu riêng của mình để làm hạt nhân thay đổi cho hoạt động canh tác mía thì HAGL chỉ trong một thời gian ngắn đã làm được điều này.
Cũng theo Thứ trưởng Tú, Hiệp hội và các doanh nghiệp mía đường chưa phổ biến được rộng rãi các kỹ thuật canh tác tiên tiến cũng như các giải pháp từng bước cơ giới hóa canh tác mía cho người trồng mía. Công suất của các nhà máy đường trong nước thấp, trung bình chỉ từ 3.400 tấn mía/ngày, trong khi công suất hiệu quả cần tối thiểu từ 6.000 – 8.000 tấn mía/ngày, điều này dẫn tới giá thành luôn cao hơn so với thế giới và khu vực. Hiệp hội Mía đường cũng chưa phổ biến rộng rãi công nghệ mới để tăng hiệu quả, giảm lãng phí nguyên liệu, nên không giảm được chi phí sản xuất, làm giá thành đường cao.
Trách nhiệm thuộc về ai?
Vấn đề bất cập thứ hai quan hệ giữa người nông dân trồng mía với các nhà máy vẫn không đổi mới trong hàng chục năm qua. Vẫn chỉ có người nông dân tự trồng mía và bán cho nhà máy theo phương thức “mua đứt, bán đoạn”, người nông dân luôn ở thế yếu trong quan hệ này. Khi giá bán đường trong nước lên cao, các nhà máy chưa quan tâm chia sẻ lợi ích với người nông dân trồng mía, đến khi giá xuống thì gánh nặng lại dồn hết lên vai người nông dân, dẫn đến tình trạng “được mùa, mất giá; được giá mất mùa” mà lâu nay vẫn diễn ra. Người nông dân không yên tâm trồng mía và sẵn sàng chặt bỏ để chuyển sang cây trồng khác, khiến ngành mía đường không chủ động được nguồn nguyên liệu.
Vấn đề bất cập thứ ba là về phương thức kinh doanh và bất cập thứ tư là sự liên kết lỏng lẻo. Ông Tú đánh giá, dù ngành mía đường đã thành lập Hiệp hội nhưng thực chất các doanh nghiệp thành viên chỉ có sự liên kết lỏng lẻo, không hiệu quả để đổi mới, phát triển ngành.
Trong việc thay đổi diện mạo ngành mía đường, Thứ trưởng Công thương Nguyễn Cẩm Tú góp ý, định hướng chính là chủ động mở cửa dần dần để tạo sự cạnh tranh từng bước, trong đó việc nhập khẩu đường của HAGL là một bước như vậy. Trong cuộc cạnh tranh đó, các doanh nghiệp yếu kém hãy sáp nhập, hình thành các công ty lớn đủ quy mô như đã thực hiện trong lĩnh vực ngân hàng vừa qua.
“Đánh giá một các công bằng, thực trạng hiện nay của ngành mía đường Việt Nam có một phần trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, trong đó có Bộ Công Thương và cá nhân tôi. Tuy nhiên, trách nhiệm chính đối với thực trạng này vẫn thuộc về Hiệp hội Mía đường các các doanh nghiệp trong ngành” – Theo Thứ trưởng Tú.
Bích Diệp