Băng tan nhanh gây cạn kiệt tài nguyên nước ngọt

(Dân trí) - Việc theo dõi liên tục các sông băng và chỏm băng đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu những hiểu biết chưa từng có về việc băng tan toàn cầu.

Băng tan nhanh gây cạn kiệt tài nguyên nước ngọt - 1

Tác động của băng tan ở Greenland và Nam Cực đối với các đại dương trên thế giới đã được ghi nhận rõ ràng. Nhưng đối tượng đóng góp lớn nhất cho mực nước biển dâng trong thế kỷ XX là băng tan và sông băng nằm ở bảy khu vực khác nhau: Alaska, Quần đảo Bắc Cực Canada, Nam Andes, Núi cao châu Á, Bắc cực Nga, Iceland và quần đảo Svalbard của Na Uy. Trong đó, năm khu vực Bắc Cực chiếm tỷ lệ lớn nhất trong việc mất băng.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Động cơ phản lực của NASA, Đại học California, Irvine và Trung tâm nghiên cứu khí quyển quốc gia ở Boulder, Colorado, sự tan chảy băng đang gia tăng, có khả năng ảnh hưởng đến không chỉ bờ biển mà cả vấn đề nông nghiệp và nước uống trong các cộng đồng trên khắp thế giới.

Ở vùng núi Andes ở Nam Mỹ và vùng núi cao châu Á, sông băng tan chảy là nguồn cung cấp nước uống và tưới tiêu chính cho hàng trăm triệu người. Căng thẳng về tài nguyên này có thể có tác động sâu rộng đến hoạt động kinh tế và sự ổn định chính trị.

Các nhà nghiên cứu dựa trên dữ liệu từ cặp vệ tinh Phục hồi Trọng lực và Thí nghiệm Khí hậu (GRACE) của Mỹ đã ngừng hoạt động gần đây trước đó hoạt động từ năm 2002 đến 2017 và cặp kế tiếp của họ, GRACE Follow On (ra mắt năm 2018). Các nhà nghiên cứu tính toán rằng, trung bình, bảy khu vực này đã mất hơn 280 tỷ tấn băng mỗi năm.

Tan chảy băng đã đóng góp tổng cộng 13 mm trong mực nước biển toàn cầu tăng từ năm 2002 đến 2019, và tỷ lệ này đã tăng từ 0,7 mm mỗi năm trong năm 2002 lên 0,9 mm mỗi năm vào năm 2019.

Cũng như GRACE, các vệ tinh GRACE-FO liên tục đo những thay đổi rất nhỏ trong lực hấp dẫn của Trái đất khi chúng quay quanh Trái đất. Theo thời gian, sự dịch chuyển trong phân phối nước là nguồn thay đổi trọng lực lớn nhất trên hành tinh, vì vậy các nhà khoa học có thể sử dụng các phép đo thay đổi trọng lực để theo dõi sự thay đổi của khối lượng nước khi nó quay vòng từ các tảng băng và sông băng đến đại dương.

GRACE là một nhiệm vụ chung của NASA và Trung tâm hàng không vũ trụ Đức, hợp tác với Đại học Texas tại Austin. GRACE-FO là sự hợp tác giữa NASA và Trung tâm nghiên cứu khoa học địa chất Đức.

Nhà nghiên cứu Velicogna và các đồng tác giả của mình đã thu hẹp khoảng cách dữ liệu giữa sự kết thúc của GRACE và sự khởi đầu của GRACE-FO bằng cách sử dụng một công cụ mô hình tiên tiến có tên là Phân tích hồi cứu hiện đại cho nghiên cứu và ứng dụng Phiên bản 2 (MERRA-2) từ Văn phòng mô hình hóa toàn cầu của NASA.

MERRA-2 sử dụng một loạt các bộ dữ liệu quan sát độc lập để tăng độ chính xác cho các ước tính của nó. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng kết quả MERRA-2 xếp hàng với dữ liệu GRACE và GRACE-FO tốt đến mức nào, giúp họ có độ tin cậy cao về những gì các vệ tinh này đã quan sát được nếu một hoặc cả hai hoạt động trong thời kỳ của khoảng cách dữ liệu.

Có một hồ sơ dựa trên các phép đo chính xác, dài hạn của hàng trăm ngàn sông băng trên thế giới trong hơn 18 năm giúp tăng cường đáng kể sự hiểu biết của chúng ta về sự thay đổi của chúng.

Trang Phạm

Theo Scitech Daily