Xếp hạng đại học Việt Nam trên thế giới: Tại sao chỉ quẩn quanh mấy trường?
(Dân trí) - Nhiều trường đại học Việt Nam hiện nay không tạo ra sự đột phá thì khó thực hiện được việc xếp hạng không chỉ trong khu vực, thế giới mà thậm chí cả trong nước.
Xếp hạng đại học như là một phương pháp hỗ trợ đo lường và đánh giá chất lượng đại học đã trở nên quen thuộc ở Việt Nam. Đó cũng được xem như là các phương pháp cơ bản để “thăm khám sức khỏe” của các cơ sở giáo dục đại học.
Tuy nhiên, việc xếp hạng này thời gian qua chưa có sự đột phá, chỉ có mấy trường đại học nổi lên vươn tầm khu vực và thế giới, còn lại hơn 200 trường đại học khác chưa có động tĩnh, thay đổi nào lớn, vì sao vậy?
Phóng viên Dân trí đã có cuộc trao đổi với GS.TS Nguyễn Hữu Đức – ĐH Quốc gia Hà Nội, một chuyên gia về lĩnh vực xếp hạng đại học để lý giải nguyên nhân về vấn đề này.
Với đầu tư và quản trị chiến lược như hiện nay sẽ không thể tạo ra sự đột phá cho phát triển đại học Việt Nam.
Phóng viên: Vừa qua Việt Nam có một số đại học, trường đại học liên tiếp lọt vào các bảng xếp hạng của khu vực và thế giới. Tuy nhiên, quay đi quẩn lại vẫn điểm danh chỉ mấy trường này (ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH QG TP.HCM, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội và Trường ĐH Tôn Đức Thắng…), còn lại các trường đại học khác không có động tĩnh phát triển gì. Giáo sư đánh giá và nhận định về vấn đề này như thế nào?
GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Đấy là tính đến top 1000 thế giới, còn ở tầm châu Á, Việt Nam có đến 8 CSGDĐH trong top 500 (thêm Trường ĐH Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế và Trường Đại học Duy Tân).
Với lịch sử phát triển đại học thế giới đã hơn 932 năm (tính từ mốc thành lập Đại học Bolona (Italia) vào năm 1088) hoặc 210 năm (tính từ khi trường đại học định hướng nghiên cứu đầu tiên ra đời – Đại học Humboldt (Đức) vào năm 1810) thì bản đồ đại học và đẳng cấp đại học thế giới gần như đã ổn định. Các trường mạnh càng ngày càng mạnh hơn, càng khẳng định vị trí của họ.
Các nền đại học trẻ, nhất là ở các nước kinh tế còn hạn hẹp có tên trên bản đồ đó đã phải nỗ lực rất nhiều. Nhiều người nói nước ta đã có trường đại học Quốc Tử Giám đầu tiên (năm 1076), Đại học Đông dương (năm 1906), Trường Đại học Quốc gia Việt Nam (năm 1945)… nhưng đó chỉ là truyền thống vì các trường này phát triển rất gián đoạn.
Các trường đại học thực sự và được phát triển liên tục của chúng ta chỉ mới được thành lập vào những năm 1956-1957, còn trẻ và có lịch sử phát triển trong chiến tranh rất khó khăn.
Nhìn sự phát triển đại học nên theo chiều dài như vậy, không nên chỉ nhìn vào thành tích 1-2 năm. Có khắt khe thì cũng nên xét cả chặng đường 10 năm vừa rồi (2010-2020), đầu tiên chỉ có ĐHQGHN được xếp hạng, sau đó đến ĐHQG TpHCM, rồi bây giờ đã có 8 trường.
Điều đáng mừng ở đây là việc nhiều trường đã trụ hạng được trong nhiều năm, trụ hạng bền vững, tức là tốc độ phát triển của các trường hàng đầu của ta vẫn giữ được nhịp độ với thế giới, nếu không thì đã bị loại khỏi bảng xếp hạng rồi.
Xét kỹ hơn thì cả cả hệ thống đại học của chúng ta đang phát triển rõ rệt đấy chứ. Năm 2015, tôi thống kê thấy các trường đại học chỉ đóng góp vào 56% tổng số bài báo quốc tế của các nước, nhưng năm nay thống kê đã cho thấy 85% công bố quốc tế của Việt Nam là của ngành giáo dục đại học.
Xét về phương diện quốc gia, từ chỗ nền giáo dục đại học nước ta nằm ngoài nhóm 100, thì hiện nay có thể đánh giá được rằng: chất lượng hệ thống đại học Việt Nam xếp hạng vào khoảng 68/196 các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên, phóng viên nhận xét cũng đúng đấy. Với đầu tư của Nhà nước và quyết tâm của nhiều trường đại học, đặc biệt là việc xây dựng chiến lược phát triển như hiện nay, chúng ta không thể tạo ra đột phát được.
Các Bộ, ngành, địa phương cần quán triệt, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các cơ sở giáo dục đại học với vai trò là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nơi khởi phát sáng tạo tri thức mới, là thành tố quan trọng trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và động lực phát triển kinh tế - xã hội để quan tâm và đầu tư thỏa đáng hơn thì mới có kết quả cao hơn được.
Phóng viên: Giáo sư là người trực tiếp phụ trách hệ thống về các tiêu chí và nguyên tắc của Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đại học Việt Nam UPM (University Performance Metrics) và đã có thực hiện đánh giá xếp hạng các trường ĐH Việt Nam vào đầu năm nay. Vậy sau bảng xếp hạng này, giáo sư thấy các trường có động tĩnh thay đổi, tiến triển trong thời gian qua không? Năm nay việc xếp hạng này có được thực hiện?
GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Thực ra, Bộ tiêu chí UPM của chúng tôi xây dựng là một hệ thống đối sánh chất lượng cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo và thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư của Việt Nam.
Ngoài các tiêu chí cơ bản về đào tạo và nghiên cứu, UPM quan tâm đến cả quản trị chiến lược, hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, các yếu tố của đại học thông minh và chuyển đổi số, mức độ quốc tế hóa và phát triển bền vững theo tiếp cận kiểm định chất lượng và xếp hạng gắn sao; hỗ trợ đối sánh và nhận diện chất lượng đại học một cách toàn diện.
Trước khi vận hành một hệ thống đầy đủ với 53 tiêu chí của UPM, chúng tôi đã khởi động xếp hạng 4 chỉ số nghiên cứu vào đầu năm 2020. Cuối tháng 4 năm 2020, nhóm nghiên cứu của Trường ĐH Duy Tân cũng công bố danh sách 50 cơ sở giáo dục đại học có công bố quốc tế tốt nhất Việt Nam 2019.
Các kết quả xếp hạng bước đầu này của Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm của các trường đại học và cả cộng đồng; hỗ trợ các trường đại học nhận diện hiệu quả hoạt động của mình, nhất là đối với các trường đại học được tự chủ và các trường đại học ngoài công lập để thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, nâng cao chất lượng đào tạo qua nghiên cứu… và như đã nói ở trên năng suất và chất lượng nghiên cứu của các trường đại học nước ta đã được cải thiện rất nhiều.
Năm nay, UPM sẽ công bố kết quả xếp hạng đối sánh, gắn sao cho các cơ sở giáo dục đại học tự nguyện tham gia, tự nguyện sử dụng Bộ tiêu chỉ UPM để nhận diện và quản trị chiến lược phát triển của trường mình.
UPM không chỉ giúp các trường đại học trong nước đối sánh với nhau một cách toàn diện và còn đang nỗ lực để có sự tham gia của một số trường đại học trong khu vực, từng bước hội nhập quốc tế.
Như thông lệ của các bảng xếp hạng đại học khác, UPM đang có kế hoạch công bố kết quả vào dịp tuyển sinh đại học năm nay, hỗ trợ thêm thông tin để người học có sự lựa chọn thích hợp.
Xếp hạng hỗ trợ quản trị đại học
Phóng viên: Hiện nay, các nhà tuyển dụng nhân lực họ chỉ quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực mà các trường đại học đào tạo ra liệu có đủ các kỹ năng đáp ứng được công việc thực tế ngay hay không chứ họ không quan tâm tới cơ sở đại học này vào bảng xếp hạng khu vực, hay thế giới. Có ý kiến lo ngại các trường chạy theo xếp hạng mà xao lãng việc đào tạo nhân lực chất lượng, kỹ năng cho sinh viên?
GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Tôi lại không nghĩ như vậy. Chẳng có kết quả xếp hạng nào từ trên trời rơi xuống cả và nói chung không có một trường đại học nào xếp hạng vị xếp hạng cả. Đó là chưa nói, xếp hạng tự nó cũng là một trong các công cụ quản trị chất lượng và phát triển thương hiệu.
Kết quả xếp hạng là một góc chụp trực tiếp uy tín và chất lượng của trường đại học. Trường nào nỗ lực cải tiến các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục (tăng tỉ lệ giảng viên trên sinh viên, tăng tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ), nâng cao năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế, công bố nhiều công trình khoa học có ý nghĩa và ảnh hưởng khoa học cao, có hợp tác quốc tế tốt trong cả đào tạo và nghiên cứu… thì kết quả xếp hạng tốt nó tự đến.
Sự thờ ơ của các các nhà tuyển dụng Việt Nam nên được phân tích theo một góc nhìn khác. Qua việc áp dụng bộ công cụ UPM để đối sánh cho nhiều trường đại học trong khu vực, có thể nhận xét là nhiều trường đại học của họ cùng có các chỉ số đảm bảo chất lượng tương đương của chúng ta, nhưng trường đại học của họ được xếp hạng của QS và THE… cao hơn nhiều.
Đó là vì các trường đại học của họ được cộng đồng ở đó quan tâm và tín nhiệm rất cao mà điều này lại chiếm một tỉ trọng rất cao trong điểm xếp hạng. Kết quả khảo sát của các nhà tuyển dụng và các học giả học của họ đạt tỉ lệ rất cao, gần như tuyệt đối (xem kết quả so sánh trong hình). Đó hình như có cả niềm tin và sự tự tôn.
Còn đối với nước ta, kết quả khảo sát thường nhận được kết quả thấp hơn nhiều. Dù còn điểm này, điểm nọ, nhưng có thể đánh giá rằng hơn 90% nguồn nhân lực, các doanh nhân, nhà khoa học, lãnh đạo - những người trực tiếp làm nên sự đổi thay của đất nước hôm nay đều được đào tạo và trưởng thành nhờ các trường đại học ở trong nước cả đấy chứ, đâu phải chủ yếu do nước ngoài đào tạo.
Tại sao chúng ta không nhìn nhận đúng và đánh giá công bằng đối với vai trò của đại học trong nước. Một sự quan tâm như vậy của cộng đồng không những không động viên, khích lệ ngành giáo dục mà còn đưa một hình ảnh không thật đúng lắm về xếp hạng đại học nước nhà ra thế giới.
Đây cũng là một bất cập trong phương pháp thu thập dữ liệu xếp hạng, nhưng đồng thời phản ánh sự bất cập giữa các bên liên quan trong hệ sinh thái giáo dục đại học của chúng ta mà sắp tới cần giải quyết.
Các trường đại học cần áp dụng công cụ quản trị chiến lược toàn diện
Phóng viên: Vậy, giải pháp nào để đại học Việt Nam có thể triển khai đồng bộ các yếu tố nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu xã hội?
GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Phải thừa nhận rằng tự chủ đại học mà chúng ta vừa áp dụng những năm gần đây đang tạo ra cho đại học phát triển mạnh mẽ. Theo mạch câu chuyện xếp hạng đại học hôm nay, tôi muốn các trường đại học của ta phải quản trị tốt và có bộ công cụ để quản trị chiến lược, quản trị mục tiêu và kết quả của mình, không chỉ quan tâm đến xếp hạng một cách phiến diện mà cần quản trị tổng thể toàn bộ các hoạt động của nhà trường.
Những năm gần đây, một số phương pháp đo lường và đánh giá chất lượng đại học đã trở nên quen thuộc ở Việt Nam như xếp hạng đại học và kiểm định chất lượng giáo dục.
Đó được xem như là các phương pháp cơ bản để “thăm khám sức khỏe” của các CSGDĐH. Trong đó, xếp hạng đại học (ranking), tập trung khảo sát khoảng 10-12 tiêu chí, trong đó chỉ số công bố quốc tế chiếm trọng số chủ yếu. Kiểm định chất lượng có tính bao quát cao, quan tâm đến hoạt động đảm bảo chất lượng (quality assurance), đến việc kiểm tra hệ thống và quy trình thực hiện, quản lý và quản trị, xét xem CSGDĐH có đủ điều kiện hoạt động hay không.
Xếp hạng định đoạt thứ hạng trên dưới quá rõ ràng, so sánh trường này với trường khác (Who’s the best). Để khắc phục các hạn chế trên, từ năm 2010 lại đây, một xu hướng xếp hạng khác đã được phát triển và áp dụng. Đó là xếp hạng đối sánh và gắn sao (rating) mà các bảng xếp hạng QS-Stars (Anh quốc) và U-Multirank (Hà Lan và Đức) đang thực hiện.
Trước hết, rating không xếp hạng các trường theo thứ tự. Các trường đại học có thành tích gần nhau được xếp cùng một nhóm và gắn từ 1-5 sao (như xếp hạng khách sạn).
Thứ hai là có rất nhiều tiêu chuẩn và tiêu chí, có mức độ bao quát như kiểm định chất lượng.
Thứ ba, rating có đặc trưng đối sánh theo các mốc chuẩn, theo chỉ tiêu đặt ra, trên cơ sở đó gắn sao cho từng tiêu chí, nhóm tiêu chí và gắn sao tổng thể. Do vậy xếp hạng đối sánh có thể chỉ ra các điểm mạnh và điểm yếu của một trường đại học (Who’s good at what).
Với tiếp cận như vậy, xếp hạng đối sánh có thể phối hợp với kiểm định chất lượng cung cấp cho các trường đại học một bộ chỉ số cơ bản làm công cụ quản trị chiến lược rất hiệu quả.
Còn đối với cộng đồng, xếp hạng đối sánh cung cấp các thông tin khá trực quan và dễ tiếp cận về mức độ xuất sắc tổng quát và chi tiết đến từng lĩnh vực hoạt động của các trường đại học. Cùng với Kiểm định chất lượng, xếp hạng đối sánh và gắn sao sẽ cung cấp thông tin có mức độ định lượng cao hơn về chất lượng giáo dục đại học.
Xin trân trọng cám ơn giáo sư!
Hồng Hạnh (thực hiện)