Tự chủ đại học: Bài học kinh nghiệm từ Nhật Bản
(Dân trí) - Tự chủ đại học là xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, để hiểu và vận dụng tự chủ đại học như thế nào để áp dụng khả thi cho các trường đại học ở Việt Nam hiện nay, kinh nghiệm tự chủ đại học các trường đại học ở Nhật Bản có thể sẽ là bài học rất lớn.
Để thấy được toàn bộ bức tranh của giáo dục đại học của Nhật Bản, theo số liệu năm 2015, toàn Nhật Bản có 799 trường đại học, trong đó các trường quốc lập là 86 trường (tỷ lệ 11%), trường công lập (do chính quyền địa phương thành lập) là 89 trường (chiếm 11,4%) và trường dân lập là 604 trường (chiếm 77,5%).
Số sinh viên toàn Nhật bản năm 2015 là 2.860.210 sinh viên, thì các trường quốc lập có 610.802 sinh viên (tỷ lệ 21,4%), các trường công lập 148.766 sinh viên (tỷ lệ 5,2%) và các trường dân lập có 2.100.642 sinh viên (chiếm tỷ lệ 73,4%). Như vậy có thế thấy với một đất nước tiên tiến và văn minh, có nền KHCN hiện đại như Nhật Bản, hệ thống các trường đại học dân lập chiếm số đông.
Năm 2004, toàn bộ 86 trường Quốc lập của Nhật Bản chuyển sang mô hình tự chủ, từ mô hình National University chuyển sang mô hình national University Corporation.
Thực hiện tự chủ: Các trường không được tự quyết chỉ tiêu, quy mô đào tạo tuyển sinh
Thực hiện Tự chủ đại học ở Nhật Bản, Đại học, trường đại học được tự chủ sử dụng kinh phí chi hoạt động thường xuyên, được tự quyết định mức học phí, được tự quyết định biên chế (số giảng viên và cán bộ hành chính), thành lập Khoa mới và mở chương trình đào tạo mới, thành lập hoặc xóa bỏ Trường và Viện thành viên (với mô hình đại học 2 cấp như Đại học Tokyo).
Những điều các trường ĐH Nhật Bản không được làm khi tự chủ là: chỉ tiêu tuyển sinh và quy mô đào tạo các trường không được tự quyết định. Đây có lẽ là điểm khác biệt lớn nhất so với cách hiểu về tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay.
Trước tự chủ, các trường đại học xin cấp ngân sách cho biên chế giảng viên và cán bộ hành chính; xin chỉ tiêu tuyển sinh.
Sau tự chủ, Bộ Giáo dục Nhật Bản tiếp tục quản lý chặt số sinh viên, học viên thạc sỹ, nghiên cứu sinh. Trong trường hợp thành lập khoa mà cần tăng tổng số sinh viên của trường thì nhất thiết phải xin Bộ Giáo dục như trước khi tự chủ hóa. Nếu trường hợp thành lập khoa mà không cần xin thêm chỉ tiêu tuyển tăng sinh viên của trường thì có thể tự quyết định việc thành lập khoa mới. Với mô hình đại học 2 cấp như ĐH Tokyo, việc thành lập các khoa mới của các trường thành viên do ĐH Tokyo phê duyệt.
Như vậy mặc dù tự chủ, nhưng quy mô sinh viên là tham số được Nhà nước quản lý chặt chẽ và điều tiết.
Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh là trong quá trình tự chủ đại học ở Nhật Bản, Nhà nước vẫn cấp kinh phí chi thường xuyên cho các trường, nhưng hàng năm, ngân sách hỗ trợ hoạt động thường xuyên bị cắt giảm 1%, và tinh giản biên chế khoảng 1% mỗi năm.
Tự chủ: Ngân sách hỗ trợ hoạt động 33%
Trước tự chủ: Nhà nước bao cấp và quản lý chặt về tài chính: Phân bố ngân sách theo định mức số giáo viên và số sinh viên. Đại học hầu như không có quyền tự chủ về số biên chế giảng viên, chuyên viên, số sinh viên, chương trình đào tạo, cách sử dụng ngân sách.
Nguồn tài chính của một đại học quốc lập điển hình trước tự chủ là: Ngân sách nhà nước là 50%; Hỗ trợ của nhà nước trong xây dựng CSVC là 20%; Thu nhập từ bệnh viện là 15%; Học phí là 10%; Kinh phí nghiên cứu quỹ ngoài là 5%.
Sau tự chủ, có sự chuyển biến về cơ cấu thu nhập của nhà trường, mức trung bình của một đại học quốc lập là: Ngân sách hỗ trợ hoạt động thường là 33%; Hỗ trợ của Nhà nước trong xây dựng CSVC là 7%; Thu nhập từ bệnh viện là 32%; Học phí là 11%; Kinh phí nghiên cứu quỹ ngoài là 12%; Quyên góp là 3%; Nguồn thu khác l 2%.
Ví dụ: ĐH Tokyo, kinh phí từ Nhà nước cấp năm 2016 là 74.077 triệu yên, bị giảm 14% so với năm 2004 - là 86.180 triệu yên, nhưng tổng thu của trường lại tăng 26% so với khi chưa tự chủ, đạt 244.049 triệu yên năm 2016 (khoảng 2,4 tỷ USD) so với 177.119 triệu yên vào năm 2004.
Đặc biệt lưu ý là kinh phí nghiên cứu của ĐH Tokyo đã đạt 49.789 triệu yên vào năm 2016, tăng 211% so với năm 2004 - 23.596 triệu yên, và nguồn thu từ NCKH đã đạt 22,2% tổng thu của toàn trường vào năm 2016. Nguồn thu từ NCKH làm tăng đáng kể nguồn thu của nhà trường sau tự chủ. Và cũng cần nhấn mạnh là ngay cả khi tự chủ, thì kinh phí Nhà nước cấp cho ĐH Tokyo vẫn chiếm tới 47,5% vào năm 2016.
Trong khi mức thu từ học phí của ĐH Tokyo hầu như giữ nguyên, 16.190 triệu yên vào năm 2004 và 16.357 triệu yên vào năm 2016 (chiếm khoảng 7,3% tổng thu của nhà trường). Sở dĩ mức thu học phí ít biến động là vì khi tự chủ hóa, các đại học tiếng là được tự quyết được mức học phí, Chính phủ chỉ đưa ra mức chuẩn. Nhưng Bộ Giáo dục Nhật Bản lại có chủ trương là khi một đại học tăng học phí thì Bộ sẽ giảm hỗ trợ cho kinh phí chi hoạt động thường xuyên. Nên mãi đến bây giờ về cơ bản các đại học quốc lập đều giữ mức học phí theo mức chuẩn của Bộ và không có đại học nào tăng học phí.
Với các đại dọc dân lập, tỷ lệ học phí lại chiếm đáng kể trong nguồn thu của nhà trường. Ví dụ Đại học Keio, năm 2015, số giảng viên và cán bộ hành chính là 8.595 người, số sinh viên là 32.410 người (sinh viên 28.855, học viên SĐH 3.555 người), nguồn thu đạt 1545 triệu yên, trong đó nguồn thu cao nhất là từ học phí, 534 triệu yên (chiếm khoảng 35% tổng thu), thu từ dịch vụ y tế (36%). Tuy nhiên mức đầu tư của Nhà nước cho các trường dân lập vẫn có, và Đại học Keio đạt 137 triệu yên, chiếm tỷ lệ đáng kể (9%) so với nguồn tài chính của trường.
Nhờ có chính sách tự chủ đại học, các trường đại học quốc lập đã phát huy cao nhất sự năng động, sáng tạo và tính linh hoạt trong các hoạt động, gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp, đẩy mạnh nghiên cứu, thúc đẩy KHCN và kinh tế phát triển.
Các trường đại học Nhật Bản vươn lên trong các bảng xếp hạng của thế giới: Năm 2004, Nhật Bản có 6 trường đại học lọt vào top 200 trường đại học hàng đầu của thế giới theo bảng xếp hạng QS là: The University of Tokyo, Kyoto University, Tokyo Institute of Technology, Osaka University, Tohoku University và Nagoya University, năm 2018 đã tăng lên thêm 3 trường vào top 200 đại học hàng đầu thế giới, là Hokkaido University, Kyushu University và Keio University, trong đó đáng chú ý Đại học Keio là đại học dân lập. Đồng thời tự chủ cũng giúp cho Nhà nước giảm được gánh nặng ngân sách.
Mặt trái của quá trình tự chủ
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nhìn ra một số mặt trái của quá trình tự chủ đại học ở Nhật Bản. Trước tự chủ, Chính phủ quy định chặt qui mô biên chế, số giáo sư, số phó giáo sư, số giảng viên và trợ giảng. Sau tự chủ hóa, không còn hạn chế số biên chế kể trên. Tuy nhiên chi cho cán bộ do trường quyết nhưng mức lương vẫn theo qui định lương công chức viên chức nhà nước (và do đó không có sự gia tăng đáng kể).
Và phúc lợi hưu trí có khung, nên trên thực tế các đại học bị buộc phải giữ số biên chế trước tự chủ hóa. Và như vậy, trên thực tế, tăng học phí, tự chủ biên chế, cũng như việc nhà trường được tự quyết xóa bỏ hoặc giải thể các đơn vị trong trường, nhưng hầu như những nội dung này không có sự thay đổi đáng kể trong quá trình tự chủ đại học ở Nhật Bản.
Những mặt trái khác không thể không nhắc đến, như trong quá trình tự chủ hóa, ngân sách hỗ trợ hoạt động thường xuyên giảm đi, các đại học buộc phải giảm số giảng viên, nhất là giảng viên vị trí thấp như trợ giảng.
Tự chủ cũng kéo theo sự già hóa tuổi bình quân của giảng viên ở hầu hết tất cả các đại học quốc lập (Năm 2004, tuổi trung bình của giảng viên là 46,4 tuổi; năm 2013 - 47,4 tuổi); làm giảm đi số giảng viên trẻ dưới 35 tuổi ( Năm 2004 - 13,4 %; Năm 2013 - 9,8%). Các trường tăng lên số giảng viên hợp đồng có thời hạn (Giảng viên dưới 35 tuổi, tỷ lệ tương ứng giảng viên năm 2007/2013 - hợp đồng không có thời hạn là 47,1%/52,9% và có thời hạn là 26,5% /73,5%).
Tự chủ đại học cũng kéo theo sự gia tăng tỷ lệ các nhà nghiên cứu trẻ chưa có việc làm và thâm niên, ảnh hưởng xấu tới số lượng nghiên cứu sinh (NCS), ví dụ ở ĐH Tokyo năm 2010 tổng số NCS là 6141, trong đó NCS người Nhật là 4819, thì vào năm 2017, quy mô NCS là 5.771 (giảm 6%) và NCS người Nhật còn 4.360 (giảm 9,5%).
Mô hình đại học 2 cấp khi tự chủ đại học
Tự chủ đại học ở Nhật Bản tác động mạnh mẽ đến mô hình đại học 2 cấp.
Chúng tôi sẽ phân tích qua ví dụ điển hình từ thực tiễn quá trình tự chủ hóa của ĐH Tokyo. Trước tự chủ, thực quyền của Giám đốc ĐH Tokyo không mạnh: Hội đồng giáo sư các trường và viện thành viên có quyền quyết định chương trình giảng dạy và tuyển dụng giảng viên.
Căn cứ vào quyền hạn của Hội đồng giáo sư, các trường và viện thành viên thực chất đóng vai trò trung tâm trong việc vận hành ĐH Tokyo. Trước tự chủ Giám đốc ĐH Tokyo không có quyền tuyển dụng giảng viên cơ hữu (việc này do các trường, viện thành viên đảm nhiệm).
Giám đốc Đại học đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo của Đại học, mặc dù Hội đồng này có quyền quyết định những vấn đề quan trọng về đào tạo và nghiên cứu của Đại học Tokyo, nhưng trên thực tế Giám đốc Đại học không có thực quyền lớn khác. Chỉ có hai Phó Giám đốc giúp việc Giám đốc.
Trước tự chủ, Nhà điều hành ĐH Tokyo lại có thực quyền lớn vì các vị đứng đầu các ban chức năng làm việc tại Nhà điều hành vốn đã là cán bộ cao cấp của Bộ Giáo dục. Nhà điều hành thực chất như là chi nhánh của Bộ Giáo dục giám sát và quản lý ĐH Tokyo.
Sau tự chủ, thực quyền của Giám đốc ĐH Tokyo rất lớn, vì chỉ có Đại học Tokyo trở thành pháp nhân độc lập. Và là người đại diện pháp nhân độc lập, Giám đốc Đại học Tokyo có quyền quyết định những vấn đề lớn của Đại học Tokyo.
Giám đốc thành lập Hội đồng trường gồm có 7 người (thường là 6 vị Phó giám đốc và một vị đại diện bộ phận hành chính). Giám đốc có quyền chỉ định các thành viên Hội đồng trường. Khi tự chủ hóa, các trường và viện thành viên đều nhất trí cao rằng ĐH Tokyo phải có Giám đốc mạnh để tăng cường sức cạnh tranh của ĐH Tokyo.
Quy trình bầu Giám đốc Đại học Tokyo khi tự chủ: Đại diện các đơn vị trực thuộc Đại học Tokyo bầu 10 người ứng viên, Ủy ban Tuyển dụng Giám đốc Đại học Tokyo chọn ra 5 người, Tất cả giảng viên cơ hữu tham gia bầu cử, Căn cứ vào kết quả bầu cử, Ủy ban Tuyển dụng quyết định ứng viên trúng cử, Bộ trưởng Bộ Giáo dục bổ nhiệm Giám đốc mới dựa trên quyết định của Ủy ban.
Còn đối với Hiệu trưởng, Viện trưởng các trường và viện thành viên thì Hội đồng giáo sư trực tiếp bầu.
Như vậy có thể thấy, chỉ có các giáo sư, các giảng viên đại học mới là người có quyền được bầu và quyết định lãnh đạo trường đại học của mình. Vai trò của các giáo sư, giảng viên đại học rất lớn.
Về tuyển sinh: Ngay cả khi tự chủ, tuyển sinh bậc đại học do cấp ĐH Tokyo quản lý tập trung, còn tuyển sinh bậc sau đại học thì phân cấp cho các trường sau đại học (Grauduate Schools) quản lý.
Trước Tự chủ hóa: Hỗ trợ của ngân sách nhà nước được cấp trực tiếp cho các trường và viện thành viên theo định mức của Bộ (dựa vào số giảng viên, số sinh viên v.v..). Học phí thu vào Kho ngân sách nhà nước sau đó cấp cho Đại học.
Sau tự chủ: Kinh phí chi hoạt động thường xuyên của ngân sách nhà nước được cấp cho Đại học, sau đó Đại học được tự quyết và phân bổ xuống các trường và viện thành viên. Học phí được thu vào ngân sách Đại học, sau đó Đại học phân bổ xuống các trường và viện thành viên.
Riêng kinh phí NCKH, trước và sau tự chủ hóa, các trường và viện thành viên trực tiếp thu.
Khi tự chủ, hàng năm, ngân sách Nhà nước hỗ trợ hoạt động thường xuyên bị cắt giảm 1%; Đặc biệt kể từ khi tự chủ, văn phòng Giám đốc Đại học Tokyo có Hội đồng có chức năng tuyển dụng giảng viên (có quyền tương đương Hội đồng Giáo sư của các Trường và Viện thành viên khi chưa tự chủ).
Cũng cần nhấn mạnh là mặc dù sau tự chủ, Giám đốc Đại học có quyền lực rất lớn, tuy nhiên cũng có cơ chế để giới hạn quyền lãnh đạo của Giám đốc. Ví dụ năm 2013, Giám đốc Hamada đề xuất thay đổi thời gian nhập học chính từ tháng 4 sang tháng 9 để hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, đề xuất cải cách này đã trực tiếp đụng đến quyền xây dựng chương trình đào tạo của các trường thành viên nên một số trường phản đối khiến Giám đốc không thực hiện được ý tưởng này.
Từ những kinh nghiệm và bài học trong quá trình tự chủ đại học đã rất thành công ở Nhật Bản, chúng tôi hy vọng qua bài viết này sẽ góp phần sáng tỏ thêm cho hành trình đổi mới và tìm tòi cơ chế tự chủ phù hợp cho các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc Gia Hà Nội