Đại học ngoài công lập “chậm tiến” vì đâu?

(Dân trí) - GS.TS Đặng Ứng Vận cho biết, đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cách thức công nhận các cơ sở giáo dục ĐH ngoài công lập (NCL) không vì lợi nhuận và những chính sách khuyến khích đặc biệt cho các loại trường này.


Mô hình trường ĐHNCL có pháp lý của một doanh nghiệp, được quản lý như một công ty thương mại cổ phần

Mô hình trường ĐHNCL có pháp lý của một doanh nghiệp, được quản lý như một công ty thương mại cổ phần

Luật chưa làm rõ cơ chế sở hữu - “không vì lợi nhuận”

Trước đây, ở Việt Nam có 3 loại trường NCL: dân lập, tư thục, bán công. Nhà nước có chủ trương chuyển toàn bộ sang tư thục có lợi nhuận (có cổ đông và cổ tức). Hiện nay loại hình trường ĐH bán công và dân lập bị xoá bỏ trên văn bản, chỉ còn một loại hình trường ĐH NCL là trường ĐH tư thục.

Thực tế đã chuyển được 12/19 trường dân lập thành tư thục. Giờ xuất hiện khái niệm trường không vì lợi nhuận nhưng chỉ mới trong chủ trương mà chưa vận dụng vào thực tiễn, mô hình này được xác định tại Nghị định 141/2013/NĐ-CP. Bởi vấn đề nằm ở cả Luật Giáo dục, Luật Giáo dục ĐH và nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa làm rõ cơ chế sở hữu cũng như tính chất “không vì lợi nhuận” của các loại hình trường NCL.

GS.TS Đặng Ứng Vận cho biết, đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cách thức công nhận các cơ sở giáo dục ĐH NCL không vì lợi nhuận và những chính sách khuyến khích đặc biệt cho các loại trường này.

Cách xác định tính “không vì lợi nhuận” căn cứ theo mức lợi nhuận lợi tức của cổ đông như đưa ra ở Luật Giáo dục ĐH cũng chưa thật thoả đáng.

Hệ quả là các trường ĐH NCL ở nước ta được hình thành từ nhiều phương thức khác nhau, có mức độ hưởng lãi suất khác nhau nhưng đều nhận là trường “không vì lợi nhuận”. Vậy một vấn đề hết sức quan trọng là phải minh bạch khái niệm và cơ chế lợi nhuận trong giáo dục ĐH NCL.

Cần hiểu rõ: Đại học vì lợi nhuận - không vì lợi nhuận

GS Đặng Ứng Vận phân tích, giáo dục ĐH NCL vì lợi nhuận có chủ sở hữu là tư nhân hoặc người uỷ thác, nguồn vốn đầu tư xây dựng và hoạt động thường là của tư nhân với mục tiêu kinh tế vì lợi nhuận và cơ chế hoạt động cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo theo cơ chế thị trường. Lợi nhuận một phần được sử dụng để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục và phần phân chia cho các chủ thể góp vốn (các chủ thể đầu tư có toàn quyền quyết định).

Sự xuất hiện và phát triển các cơ sở giáo dục vì lợi nhuận tăng mạnh ở nước ta xuất phát từ rất nhiều yếu tố. Nhu cầu nhân lực chất lượng cao, trình độ cao của xã hội tăng lên, nhu cầu đào tạo lại và đào tạo thêm nghề nghiệp cũng tăng nhanh. Trong khi đó, ngân sách nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu lớn như vậy, đồng thời mô hình và cơ chế hoạt động của hệ thống giáo dục công lập có những hạn chế nhất định.

Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế sâu rộng, vận dụng cơ chế thị trường để phát triển giáo dục đào tạo có hiệu quả hơn, tri thức, sức lao động có trình độ cao đang trở thành hàng hoá đặc biệt mang tính chất toàn cầu. Người học thấy rõ việc đầu tư cho việc học tập mang lại lợi ích thiết thực, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.

Các nhà kinh doanh, các chủ đầu tư cũng nhận thấy giáo dục đào tạo là một lĩnh vực kinh doanh rất có hiệu quả. Thêm vào đó, sự phát triển của công nghệ thông tin, internet cũng góp phần cho sự các phương thức đào tạo hiện đại thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở giáo dục nói chung và cơ sở giáo dục vì lợi nhuận nói riêng.

Đối với giáo dục đại học ngoài công lập không vì lợi nhuận, về nguyên tắc cơ bản các cơ sở này cũng phải cân đối được thu chi và có tích luỹ để phát triển. Không vì lợi nhuận là nói về giữa mối quan hệ giữa chủ đầu tư (nguồn vốn đầu tư) và việc sử dung và phân chia lợi nhuận thu được.

Lợi nhuận thu được không chia cho những chủ thể góp vốn mà được giữ lại để đưa vào phát triển chương trình và các dịch vụ giáo dục. Tất nhiên, những cơ sở giáo dục không vì lợi nhuận vẫn có mục đích và khả năng thu lợi nhuận, thặng dư được giữ lại để đầu tư phát triển và tiếp tục cung cấp các chương trình và dịch vụ giáo dục, thặng dư đó không do cá nhân nào làm chủ mà cũng không phân chia cho các cá nhân hoặc cổ đông.

“Tóm lại, điểm khác biệt cơ bản giữa hai loại hình giáo dục đào tạo trên không phải là có hoạt động theo cơ chế thị trường hay không, có thu học phí hay không, có tạo ra lợi nhuận hay không, cũng không phải đối tượng nào là chủ sở hữu, mà điểm chính là mục tiêu hoạt động, nguyên tắc sử dụng và phân chia lợi nhuận do cơ sở giáo dục tạo ra” - GS Vận nhấn mạnh.


Sản phẩm của trường ĐH ngoài công lập bị đối xử không công bằng

"Sản phẩm" của trường ĐH ngoài công lập bị đối xử không công bằng

Hoạt động có theo mô hình doanh nghiệp nên không ổn định

Về tự chủ của các trường ngoài công lập, trong hơn hai thập kỷ qua, khối trường ĐH NCL của nước ta phát triển tương đối nhanh với quy mô: ở năm 1997 là 15 cơ sở; đến năm 2009 con số này là 78 cơ sở (tăng hơn 5 lần); đến hết năm 2015 là 84 cơ sở. Năm 2016, đóng góp số lượng: 28% theo tổng số trường ĐH và 14% theo tổng số sinh viên, tỷ lệ này chưa cao so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, với con số trường sở như vậy, theo ước tính của một số chuyên gia, từ năm 2000 đến nay, hàng năm trường ĐH NCL đã có thêm trên 300.000 chỗ học mới cho người học và tạo thêm hàng vạn việc làm cho người lao động.

Mô hình trường ĐHNCL có pháp lý của một doanh nghiệp, được quản lý như một công ty thương mại cổ phần, theo mục đích vì lợi nhuận thì trường cũng chịu chấp nhận rủi ro trong hoạt động kinh doanh, có thể bị phá sản, bị giải thể, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần, tức là thay đổi chủ đầu tư.

GS Vận cho rằng, đây chính là yếu tố dẫn đến tính không ổn định của một trường tư thục. Các trường có quyền tự trị bởi những người nằm trong thành phần cổ đông và Hội đồng quản trị và cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của thị trường lao động.

Trường có nhiều cổ đông nhất là các trường ĐH Công nghệ Tp. HCM (439 người), Hoa Sen (88 người) và Công nghệ Sài Gòn (79 người). Bên cạnh đó, có trường chỉ có 1 cổ đông duy nhất và là các công ty, tập đoàn kinh tế như ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu, FPT, Kinh Bắc và Quốc tế Hồng Bàng.

Hơn nữa, đối với những trường mới thành lập gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng, đào tạo giảng viên và cán bộ quản lý, đội ngũ giảng viên trẻ còn mỏng (phần lớn là giảng viên trẻ mới tốt nghiệp, ít kinh nghiệm), hầu hết là cao tuổi (là các giảng viên đã nghỉ hưu từ các trường công).

Theo số liệu kê khai năm 2016, tổng số giảng viên của các trường ĐH NCL là trên 20.500 giảng viên, trong đó 71% là giảng viên cơ hữu, số còn lại là giảng viên thỉnh giảng. Đặc biệt trường ĐH Quốc tế Bắc Hà 97 giảng viên thì số lượng giảng viên thỉnh giảng nhiều hơn giảng viên cơ hữu (48 cơ hữu và 49 thỉnh giảng). Điều này cũng là hạn chế cho việc xin mở ngành của các trường, với yêu cầu các giảng viên với trình độ tiến sĩ, thạc sĩ phải trong độ tuổi lao động. Đồng thời cũng hạn chế cho vấn đề nghiên cứu khoa học tại các trường ĐH NCL.

Học phí là nguồn thu chủ yếu

Theo thống kê của Hiệp hội các trường ĐH cao đẳng Việt Nam, đến nay có 5/60 trường thành lập đã 20 năm nhưng chưa có đất xây trường phải đi mướn, thuê. Nguồn lực tài chính của các trường còn hạn chế. Học phí là nguồn thu chủ yếu của các trường, chiếm trên 61,17% tổng thu - chi chủ yếu cho các hoạt động thường xuyên của nhà trường như trả lương cho cán bộ nhân viên, chi phí điện nước, duy trì bảo dưỡng cơ sở vật chất đã chiếm tới hơn 59%. Điều này cũng phản ánh một thực tế là hoạt động của các trường ĐH NCL chủ yếu dựa vào hoạt động đào tạo.

Trong khi đó, công tác tuyển sinh của các trường gặp khó khăn. Cụ thể như Trường ĐH Hùng Vương TPHCM không có sinh viên (hiện vừa được Bộ GD&ĐT cho phép tuyển sinh trở lại); trường ĐH Hà Hoa Tiên còn rất ít sinh viên đang theo học do đã dừng tuyển sinh; Trường ĐH Mỹ thuật Công nghiệp Á Châu chỉ có 135 sinh viên…Bên cạnh đó, vấn đề tự chủ học thuật của các giảng viên trong trường ĐH NCL còn kém hơn nhiều so với trường ĐH công lập.

Ngoài ra, vẫn còn một số hạn chế bất cập với sự phân biệt đối xử giữa trường ĐH công lập và NCL như: sự đối xử không công bằng giữa “sản phẩm” của trường ĐH công lập và trường ĐH NCL; việc ban hành các văn bản chưa kịp thời, thiếu tính kế thừa, chưa đồng bộ; thậm chí một số vấn đề còn chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh... gây trở ngại cho sự phát triển của các trường NCL.

Các trường chưa đáp ứng được nguồn lao động chất lượng cao

Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, năm 2016 và 2017, tỷ lệ khoảng 26% học sinh THPT không đăng ký xét tuyển ĐH. Năm 2018, trong tổng số 925.961 thí sinh đăng ký dự thi THPT quốc gia, có 688.641 thí sinh đăng ký xét tuyển ĐH là tăng 7,5% so với năm với hai năm trước. Điều này chứng tỏ việc đào tạo của các trường ĐH nói chung, ĐH NCL nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo để đáp ứng nguồn lao động chất lượng cao.

Việc xây dựng tốt các mô hình ĐH NCL nhằm giải quyết được nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành nghề sẽ mở rộng thị phần cho các trường NCL, hướng tới gần 30% học sinh THPT chưa từng nghĩ rằng mình sẽ có cơ hội học ĐH. Như vậy, dư địa cho giáo dục ĐH nói chung và giáo dục ĐH NCL nói chung thực tế là rất lớn.

Vì vậy việc xây dựng và phát triển loại hình trường ĐH NCL, đặc biệt là trường ĐH NCL không vì lợi nhuận là tất yếu, muốn được như vậy thì các trường cần: được trao quyền tự chủ đầy đủ; có môi trường bình đẳng để cạnh tranh lành mạnh giữa trường công và trường tư; được hưởng chính sách về thuê mướn đất đai làm trường; được hỗ trợ học phí, học bổng, cho vay tiền dài hạn cho sinh viên (công bằng giữa trường công và trường tư).

Đặc biệt là nhà nước cần tiếp tục khẳng định và đẩy mạnh hơn nữa xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, xây dựng các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tài trợ, miễn thuế cho phần kinh phí tài trợ và những hoạt động vinh danh, tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho giáo dục ĐH NCL.

Hồng Hạnh (ghi)