Bãi giữ xe dưới chân cầu và những vấn đề pháp lý

Hoàng Diệu

(Dân trí) - Theo luật sư, tổ chức, cá nhân khi trông giữ xe có nghĩa vụ đảm bảo an toàn cháy nổ và phải chịu trách nhiệm dân sự, hình sự (nếu có) nếu xảy ra hỏa hoạn gây thiệt hại về tài sản.

Vụ cháy bãi giữ xe dưới chân cầu Vĩnh Tuy chiều 30/8 khiến nhiều người lập tức liên tưởng tới nhiều bãi đỗ xe khác có tính chất, quy mô và phương thức hoạt động tương tự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 

Bất chấp những lợi ích mang lại về việc khai thác không gian làm nơi đỗ xe hợp pháp và tạo ra giá trị về kinh tế, nhiều người cho rằng đã tới lúc cần mạnh tay dẹp bỏ những bãi gửi xe dưới gầm cầu bởi không chỉ vi phạm pháp luật, những điểm trông xe này còn tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ về cháy nổ, mất an toàn nơi công cộng, gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản của người dân cũng như tài sản công của Nhà nước. 

Bãi giữ xe dưới chân cầu và những vấn đề pháp lý - 1

Hiện trường vụ cháy dưới gầm cầu Vĩnh Tuy (Ảnh: Công an cung cấp).

Pháp luật quy định ra sao? 

Luật sư Trần Minh Hùng (Trưởng Văn phòng luật sư Gia Đình, Đoàn Luật sư TPHCM) cho biết theo Văn bản hợp nhất số 33/VBHN-BGTVT ngày 21/7/2022 của Bộ Giao thông vận tải (nay là Bộ Xây dựng), một trong những nguyên tắc trong việc sử dụng, khai thác phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là không được sử dụng gầm cầu đường bộ làm nơi ở, bãi đỗ xe và các dịch vụ kinh doanh khác. 

Trường hợp các vị trí gầm cầu đã được cấp có thẩm quyền chấp thuận sử dụng làm bãi đỗ xe tạm thời trước thời điểm các quy định pháp luật có hiệu lực, khi hết thời hạn sử dụng tạm thời, tổ chức, cá nhân được giao sử dụng có trách nhiệm hoàn trả hiện trạng ban đầu và bàn giao cho cơ quan quản lý đường bộ. Cơ quan quản lý đường bộ có trách nhiệm kiểm tra, giám sát, tiếp nhận mặt bằng do tổ chức, cá nhân bàn giao.

Như vậy, theo quy định từ năm 2022, hành vi sử dụng gầm cầu làm bãi đỗ xe là hành vi bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, Văn bản hợp nhất số 33 tới nay đã hết hạn và được thay thế bởi Thông tư 41/2024/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải quy định về quản lý, vận hành, khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng đường bộ. Trong đó, quy định về việc cấm sử dụng gầm cầu làm bãi đỗ xe đã bị bãi bỏ. 

Dẫu vậy, đối chiếu các quy định khác của pháp luật, việc dừng đỗ xe dưới gầm cầu vượt vẫn là hành vi bị nghiêm cấm. Cụ thể, Điều 18 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 quy định người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không được dừng đỗ xe ở khu vực gầm cầu vượt, trừ những nơi cho phép được dừng đỗ xe. 

Theo khoản 4, Điều 5 và khoản 6, Điều 12 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 123/2021/NĐ-CP của Chính phủ, mức phạt với hành vi dừng đỗ xe ô tô dưới gầm cầu vượt là 1-2 triệu đồng còn mức phạt cho hành vi dựng rạp, lều quán, công trình trái phép khác dưới gầm cầu vượt là 4-6 triệu đồng (với cá nhân) và 8-12 triệu đồng (với tổ chức). 

Bởi vậy, dù văn bản mới của Bộ Giao thông vận tải không còn quy định cấm khai thác gầm cầu làm bãi đỗ xe nhưng đối chiếu các quy định khác của pháp luật, việc dừng đỗ xe, dựng công trình khác (bãi đỗ xe) dưới gầm cầu vượt vẫn là hành vi bị cấm và có thể bị xử phạt hành chính. 

Bãi giữ xe dưới chân cầu và những vấn đề pháp lý - 2

Bãi xe cũ chật ních dưới chân cầu Vĩnh Tuy (Ảnh: Gia Đoàn).

Còn theo luật sư Trương Văn Tuấn (Trưởng Văn phòng luật sư Trạng Sài Gòn, Đoàn Luật sư TPHCM), pháp luật hiện chưa có quy định cụ thể về diện tích tối đa, tối thiểu của bãi xe. Tuy nhiên, theo Quy chuẩn QCVN 01:2021/BXD ban hành kèm Thông tư số 01/2021/TT-BXD thì quy chuẩn, diện tích đỗ xe đối với một chỗ đỗ xe của phương tiện trong bãi như sau: Ô tô con 25m2; Xe máy 3m2; Xe đạp 0,9m2; Ô tô buýt 40m2 và Ô tô tải 30m2. Ngoài ra, số chỗ đỗ xe ô tô con tối thiểu phải tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật cho từng loại công trình cụ thể. 

Như vậy, pháp luật chưa có quy định về diện tích một bãi đỗ xe tiêu chuẩn, song khi kinh doanh bãi đỗ xe, đơn vị quản lý phải đảm bảo diện tích các ô đỗ xe theo quy định của pháp luật. Việc dùng gầm cầu vượt để kinh doanh với hình thức làm bãi xe hoàn toàn không đáp ứng quy chuẩn này và vừa trái luật, gây tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ.

Xảy ra cháy nổ, trách nhiệm thuộc về ai? 

Về vấn đề trách nhiệm pháp lý khi xảy ra sự cố cháy nổ, ông Tuấn cho biết mối quan hệ dân sự trong việc gửi giữ xe bản chất là giữa bên gửi và bên giữ tài sản. Trong đó, bên gửi giao tài sản, phải trả tiền công cho bên giữ còn bên giữ nhận tài sản để bảo quản và trả lại tài sản đó khi hết thời hạn hợp đồng. 

Theo Điều 557 Bộ luật Dân sự 2015, bên giữ tài sản trong trường hợp có lỗi dẫn tới thiệt hại, làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ thì có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp bất khả kháng. 

Còn theo Điều 43 Thông tư số 36/2024/TT-BGTVT quy định về hoạt động của bãi đỗ xe, điểm dừng xe thì yêu cầu đối với bãi đỗ xe là: Đảm bảo an ninh, trật tự; đáp ứng yêu cầu về phòng, chống cháy, nổ và vệ sinh môi trường. 

Với đơn vị quản lý, kinh doanh bãi đỗ xe, cần đảm bảo an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường và phòng, chống cháy, nổ tại bãi đỗ xe..., đồng thời bồi thường thiệt hại cho người gửi xe nếu để xảy ra mất mát, hư hỏng phương tiện nhận gửi giữ. 

Bãi giữ xe dưới chân cầu và những vấn đề pháp lý - 3

Một đoạn gầm cầu Vĩnh Tuy trơ lõi thép sau vụ hỏa hoạn (Ảnh: Gia Đoàn).

Như vậy, trong trường hợp cơ quan chức năng xác định bãi xe có vi phạm, không đáp ứng yêu cầu về phòng chống cháy nổ thì tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh bãi đỗ xe phải bồi thường thiệt hại cho chủ phương tiện bị cháy nổ. 

Theo Điều 556 Bộ luật Dân sự 2015, người gửi xe bị cháy nổ gây thiệt hại có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh bãi đỗ xe phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi dẫn tới làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ. Ngoài ra, đối với trường hợp xe bị thiệt hại nhưng không xác định được chủ nhân tại thời điểm giải quyết vụ án thì người gây ra thiệt hại chưa phải bồi thường và người bị thiệt hại khi có yêu cầu có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường bằng vụ án khác.

Về trách nhiệm hình sự, trong trường hợp cơ quan chức năng kết luận bãi xe có vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây thiệt hại về tài sản từ 100 triệu đồng trở lên thì tổ chức, cá nhân hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 313 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy. Trường hợp giá trị tài sản thiệt hại dưới 500 triệu đồng, mức phạt áp dụng là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù 2-5 năm. 

Trường hợp giá trị tài sản thiệt hại từ 500 triệu tới dưới 1,5 tỷ đồng, mức phạt có thể áp dụng là 5-8 năm tù.