Thành tựu 30 năm thực hiện Ngày hội Quốc phòng toàn dân
Quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân (QPTD), bao gồm tổng thể các hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hóa, khoa học... của Nhà nước và nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, đồng bộ, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang (LLVT) là nòng cốt, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, ngăn chặn các hoạt động phá hoại, gây chiến, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đồng thời sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô.
Nền QPTD là sự cụ thể hóa chính sách quốc phòng của Việt Nam, thể hiện ở cơ cấu tổ chức, hoạt động của các ngành, các cấp và của toàn dân theo một ý định, chiến lược thống nhất, nhằm tạo ra sức mạnh hiện thực để bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Xây dựng nền QPTD là xây dựng cả lực lượng và thế trận; xây dựng tiềm lực mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực chính trị-tinh thần; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, tạo nên sức mạnh tổng hợp để BVTQ. Qua 30 năm thực hiện Ngày hội QPTD, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, nổi bật ở các nội dung cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của toàn dân đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh (QPAN), BVTQ.
Đây là thành tựu cơ bản, quan trọng nhất sau 30 năm thực hiện Ngày hội QPTD. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm BVTQ của toàn dân là nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi Đảng phải có chủ trương đúng, kiên trì tổ chức thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp phong phú, khoa học. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân thể hiện trong thay đổi nhận thức của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, nhận thức của cán bộ, đảng viên đến các tầng lớp nhân dân về nhiệm vụ, ý thức trách nhiệm BVTQ. Thông qua các hoạt động Ngày hội QPTD, nhân dân nhận diện rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân (ANND) và trước hết là phải xây dựng LLVT nhân dân lớn mạnh, giữ vai trò nòng cốt trong nhiệm vụ quân sự, quốc phòng (QS, QP). Qua đó, làm cho khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng bền chặt, nhân dân đồng thuận, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta.
Để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của toàn dân, nhất là thế hệ trẻ đối với sự nghiệp củng cố QPAN một cách sâu rộng và bền vững, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về giáo dục QPAN trong tình hình mới, như: Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 12-2-2001 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác giáo dục QPTD trước tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3-5-2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục QPAN trong tình hình mới; Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10-7-2007 của Chính phủ ban hành về giáo dục QPAN; Quốc hội khóa XIII ban hành Luật Giáo dục QPAN... Đây là những văn bản quan trọng tạo cơ sở pháp lý để các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn thể chính trị-xã hội tổ chức thực hiện giáo dục QPAN đến nhiều đối tượng, trở thành môn học chính khóa trong hệ thống giáo dục quốc dân từ THPT đến đại học. Theo thống kê của Cục Dân quân tự vệ, từ năm 2009 đến 2019, cả nước đã bồi dưỡng kiến thức QPAN cho hơn 3.825.300 lượt người; giáo dục QPAN cho 36,9 triệu lượt học sinh, sinh viên; tuyển sinh đào tạo giáo viên giáo dục QPAN hơn 4.350 người. Thông qua bồi dưỡng, giáo dục QPAN đã góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm chuyển biến nhận thức, ý thức trách nhiệm các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ BVTQ, xây dựng nền QPTD và xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, ngăn chặn đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Hai là, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng XHCN, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
Trong tình hình hiện nay, việc thực hiện nhiệm vụ giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc ngoài những yếu tố truyền thống còn là giữ vững định hướng XHCN, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch để có môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước. Đó là thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng, BVTQ của quân và dân ta qua 30 năm thực hiện Ngày hội QPTD và hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Trong báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2011-2015) tại Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tiềm lực QPAN được tăng lên, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp để bảo vệ chủ quyền quốc gia và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế-xã hội. Thế trận QPTD, ANND được củng cố và gắn kết chặt chẽ hơn. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được nâng lên”(1).
Phát triển quan điểm chỉ đạo về QPAN, tại các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương tăng cường QPAN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nắm vững quan điểm chỉ đạo của Đảng, các cấp, các ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể chính trị-xã hội phối hợp cùng LLVT triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ QPAN nên đã thu được những thành tựu quan trọng. Đảng đề ra và không ngừng bổ sung, phát triển đường lối xây dựng nền QPTD, độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường; khơi dậy, phát huy được tiềm năng và sức mạnh của toàn dân; nắm vững quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước; vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng, về chiến tranh nhân dân vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; xác lập đúng đắn các quan hệ, đường lối, chủ trương, chính sách và đề ra nhiều giải pháp phù hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chiến lược BVTQ trong tình hình mới, chiến lược quân sự Việt Nam, chiến lược quốc phòng Việt Nam, chiến lược BVTQ trên không gian mạng, chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia... phù hợp với tình hình mới. Qua 30 năm thực hiện Ngày hội QPTD, Đảng ta đã lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính trị thực hiện việc huy động nhiều nguồn lực nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp cả hệ thống chính trị và toàn dân trong củng cố, tăng cường QPAN, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng XHCN, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, sức mạnh BVTQ được củng cố tăng cường, tăng thêm khả năng ngăn chặn, loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh, xâm phạm an ninh quốc gia
Sau 30 năm thực hiện Ngày hội QPTD, Đảng đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Tiềm lực quốc phòng, sức mạnh BVTQ được tăng cường; không chỉ sức mạnh quân sự, sức mạnh của các LLVT được tăng cường mà sức mạnh của nền QPTD gắn với thế trận ANND, sức mạnh của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, an ninh, đối ngoại có những bước phát triển vững chắc... Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta luôn nỗ lực, phấn đấu, ra sức chăm lo xây dựng đất nước vững mạnh trên tất cả các mặt, tạo thế và lực mới, đủ sức răn đe, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược từ bên ngoài và đối phó hiệu quả với âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, Việt Nam thường phải chiến đấu với kẻ thù có tiềm lực hơn gấp nhiều lần. Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế, nền khoa học, kỹ thuật, công nghệ, nhất là nền công nghiệp quốc phòng của đất nước còn thấp kém. Do vậy, để BVTQ, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc gia, của dân tộc, lấy sức mạnh quân sự làm nòng cốt. Sức mạnh đó được thể hiện ở tính ưu việt và sự vững bền của chế độ, khả năng đứng vững và phát triển của nền kinh tế, của xã hội trước mọi thử thách và khả năng ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và cạnh tranh với các nước có chế độ chính trị-xã hội khác nhau. Cơ sở quan trọng nhất tạo nên sức mạnh quốc phòng Việt Nam là sức mạnh chính trị-tinh thần, sức mạnh của lòng dân, khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, quân với dân; sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, đoàn kết thống nhất của Đảng. Vì thế, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương đã thường xuyên chăm lo đến lợi ích vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội; ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy Đảng và Nhà nước; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu, bản chất phản động của các thế lực thù địch; kịp thời đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, những biểu hiện dao động, suy thoái, thiếu lòng tin vào sự nghiệp đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng và CNXH; nhận thức mơ hồ về bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Trên cơ sở đó, cần tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và quần chúng, sự đoàn kết giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân.
Bốn là, xây dựng thế chiến lược BVTQ Việt Nam XHCN phù hợp với điều kiện mới; thế trận QPTD, thế trận ANND BVTQ rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; “thế trận lòng dân” được củng cố vững chắc
Trong những năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X và Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ (KVPT) vững chắc trong tình hình mới (nay là Nghị định số 21/2019/NĐ-CP ngày 22-2-2019 của Chính phủ về KVPT); xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND ở từng khu vực và trên địa bàn cả nước. Thế bố trí chiến lược QPAN được quy hoạch, điều chỉnh phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và BVTQ. Các cấp, các ngành, các địa phương đã quan tâm xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD gắn với thế trận ANND vững mạnh. Đây là điều kiện rất quan trọng để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Cả nước đã quán triệt và thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; thực hiện tốt việc phân vùng chiến lược về QPAN gắn với vùng kinh tế chiến lược theo ý định xây dựng đất nước đi đôi với BVTQ; xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh toàn diện gắn kết chặt chẽ với xây dựng hậu phương các tỉnh, thành phố, huyện (quận, thị xã) tạo thành thế trận hậu phương liên hoàn vững chắc trong cả nước. Đảng, Nhà nước, quân đội tích cực đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng mang tính lưỡng dụng đáp ứng kịp thời cho thực hiện nhiệm vụ QPAN, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trong tình hình mới. Công tác phối hợp giữa Quân đội nhân dân với Công an nhân dân theo Nghị định số 77/2010/NĐ-CP ngày 12-7-2010 của Chính phủ (nay là Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 5-9-2019 của Chính phủ) được tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến đơn vị cơ sở. Các đơn vị quân đội, công an đã chủ động phối hợp tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết nhiều vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Cùng với việc xây dựng thế trận QPTD và thế trận ANND, chúng ta đã ra sức xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc. Theo đó, Đảng, Nhà nước thường xuyên tạo điều kiện để phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân là một trong những biện pháp xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc nhất. Đây là nội dung cơ bản, là vấn đề mấu chốt của thế trận QPTD, thế trận ANND BVTQ của nước ta. Có được “thế trận lòng dân” vững chắc là bức thành đồng, bảo đảm cho đất nước có đủ sức mạnh đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, không để xảy ra chiến tranh; giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Năm là, xây dựng LLVT mà nòng cốt là Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai trò trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
Trải qua 30 năm thực hiện Ngày hội QPTD, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương đã tích cực chăm lo xây dựng LLVT vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cho đến nay, sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại có chuyển biến quan trọng. Các cấp luôn đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội; bảo đảm nội bộ đoàn kết thống nhất, giữ nghiêm kỷ luật, phát huy bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ; tích cực, chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, phản động, vô hiệu hóa chiến lược “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân đội từng bước được sắp xếp, kiện toàn tổ chức biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh, có khả năng cơ động cao; ưu tiên hiện đại hóa các lực lượng, như: Hải quân, phòng không-không quân, thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật...
Công tác huấn luyện được coi trọng và đổi mới toàn diện; thực hiện tốt phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Công tác giáo dục-đào tạo trong các nhà trường quân đội đã có bước phát triển cả về quy mô và chất lượng. Công tác nghiên cứu khoa học quân sự được chú trọng và có bước phát triển mới, trọng tâm hướng vào các vấn đề về chiến lược QS, QP trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Nhiệm vụ xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đạt được một số kết quả quan trọng. Công tác đối ngoại quốc phòng, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, có bước phát triển đột phá cả về nhận thức và hành động. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã và đang tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, BVTQ từ sớm, từ xa. Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật quân đội được quan tâm chỉ đạo, triển khai toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả thời bình và thời chiến. Các đơn vị trong toàn quân đã tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, làm cơ sở nâng cao chất lượng, khả năng chiến đấu của quân đội.
Cùng với xây dựng bộ đội chủ lực vững mạnh, Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, rộng khắp. Thực hiện Pháp lệnh về lực lượng DBĐV (1996), Pháp lệnh dân quân tự vệ (2004) và Luật Dân quân tự vệ (2009), các bộ, ngành Trung ương và các địa phương đã duy trì thực hiện có nền nếp chế độ đăng ký, quản lý quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân; chất lượng các đơn vị dự bị động viên từng bước được nâng cao; lực lượng dân quân tự vệ có số lượng phù hợp theo quy định, chất lượng không ngừng được nâng cao; đội ngũ cán bộ ban chỉ huy quân sự được củng cố, kiện toàn đủ số lượng và bảo đảm chất lượng. Đến nay, 100% ban chỉ huy quân các sự bộ, ngành từ Trung ương đến cấp cơ sở được kiện toàn, củng cố. Toàn quốc đã đào tạo được gần 24.400 cán bộ quân sự cấp xã chuyên ngành quân sự cơ sở, qua đó đã nâng cao trình độ, năng lực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương cấp xã trong thực hiện nhiệm vụ QS, QP địa phương.
Có thể nói, việc lấy Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12) đồng thời là Ngày hội QPTD cách đây 30 năm là một quyết sách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước; góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại để tăng cường tiềm lực của đất nước nói chung, tiềm lực quốc phòng nói riêng.
Hiện nay, những nguy cơ đối với đất nước mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn là những thách thức lớn. Đặc biệt, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta đã được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Hội nghị Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ, nếu chúng ta không có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh kịp thời, hiệu quả, sẽ trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của chế độ XHCN, đến việc giữ vững thành quả cách mạng. Vì vậy, Ngày hội QPTD thực sự có ý nghĩa rộng lớn, sâu sắc và có tầm quan trọng chiến lược đối với việc phát huy truyền thống yêu nước và thực hiện nghĩa vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN theo lời dạy của Bác Hồ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Thượng tướng LÊ CHIÊM
Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
(1). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.243.
Theo Báo Quân đội Nhân dân