1. Dòng sự kiện:
  2. Metro số 1 TPHCM
  3. Phóng hỏa quán cà phê làm 11 người chết

Người du kích Tây Tiến và những kỷ vật không thể quên

(Dân trí) - Gần 70 năm trôi qua, trên đỉnh Mường Lát, chàng du kích dẫn đường cho bộ đội năm xưa đã quá tuổi xưa nay hiếm. Nhắc lại ký ức một thời oai hùng cùng đoàn quân Tây Tiến xẻ núi băng rừng, người du kích già Lường Văn Pém vẫn không khỏi bồi hồi.

Người du kích Tây Tiến và những kỷ vật không thể quên

Tiếp chúng tôi bên bếp lửa dưới chân căn nhà sàn người Thái, bên dòng suối Sim đang cuộn nước về xuôi, cụ Lương Văn Pém, 84 tuổi (bản Sim, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát)- người du kích dẫn đoàn quân Tây Tiến năm xưa vẫn nhớ như in những ngày xẻ núi băng rừng cùng đoàn quân ''không mọc tóc''.

Không biết tiếng Kinh cũng làm cách mạng

Năm 1947, Pháp kéo về các bản ở Mường Lát, đám quan làng lại cấu kết với chúng. Đi đến đâu, chúng cướp bóc trâu bò, giết người, hãm hiếp phụ nữ... khiến người dân vô cùng khốn khổ, căm hận.

Khi ấy, chàng thanh niên người dân tộc Thái, Lương Văn Pém mới 17 tuổi, ''khỏe như con trâu, nhanh như con sóc, thạo đường rừng như dê núi'' được bộ đội chọn làm người du kích liên lạc dẫn đường.

Cụ Pém cùng vợ.
Cụ Pém cùng vợ.

Với chàng thanh niên ấy, thì địa bàn Mường Lát từ xã Tam Trung lên Pù Nhi, Tén Tằn, Quang Chiểu sang tới Lào, chỗ nào anh cũng thạo. Bởi thế mà khi được giao nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội thì anh không ngần ngại. Cụ bảo, lúc đó thấy bọn giặc tàn ác quá cũng sợ nhưng cách mạng bảo thì mình tin chứ.

Mặc dù, ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Thái ra cụ còn biết tiếng Lào, tiếng Mông, Khơ Mú, Dao, Mường... nhưng tiếng Kinh thì cụ lại không biết thế nhưng khi được giao nhiệm vụ, không cần suy nghĩ, cụ đã đồng ý ngay.

Cụ Pém nhớ lại: ''Hồi đó tôi cùng với khoảng 20 người nữa tham gia vào đội du kích Tây Tiến, tôi được giao nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội, truyền thông tin, cất giấu muối, tiếp tế lương thực. Bộ đội Tây Tiến mới về đây không ở với dân bản mà ở sâu trong rừng để tránh sự càn quét của thực dân Pháp và đám tay sai trong bản''.

Có những chuyến đi kéo dài tới hàng chục ngày hay nửa tháng trời. Không có đường cố định, Cụ Pém cứ dẫn bộ đội men theo suối, theo sông Mã, băng rừng mà đi, vừa đi vừa xóa dấu vết.

''Nhiều hôm giữa đêm khuya tôi một mình đi trong rừng già, bên người chỉ có một con dao nhỏ làm bạn, nghe tiếng cọp rừng gầm rú mà lạnh cả người. Lúc đó, cũng thấy hơi sợ, nhưng vì nhiệm vụ thiêng liêng nên quên hết cả sợ, cứ thế mà đi'' - cụ Pém kể. Tại các lán trại, đêm đến, cụ Pém lại được bộ đội dạy chữ, bồi dưỡng văn hóa. Ngày ấy không có giấy bút, cụ phải dùng bút chì tập viết vào từng miếng gỗ, viết xong lại mài miếng gỗ thật nhẵn rồi viết lại. Đêm nào cũng phải học nên chỉ hai tháng sau, cụ đã có thể đọc, viết được tiếng Kinh dù còn chưa thành thạo. Tuy nhiên, việc chàng thanh niên này biết đọc văn bản lúc đó như một ''sợi dây liên lạc'' truyền tin tức đến cán bộ ở các lán trại bí mật không chỉ trong các cánh rừng nguyên sinh của Mường Lát mà còn trao đổi giữa Trung đoàn Tây Tiến với các đơn vị bộ đội đóng quân trên miền Tây biên giới Việt - Lào trải dài từ Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa và Nghệ An. Thông tin giữ được bí mật, đến đúng cán bộ, đúng địa chỉ một cách an toàn.

Mỗi kỷ niệm như một phần ký ức đáng tự hào

Đường Tây Tiến vẫn trùng điệp như ngày nào.
Đường Tây Tiến vẫn trùng điệp như ngày nào.

Trong suốt hành trình những năm làm du kích, có biết bao kỷ niệm, biết bao lần suýt chết, bao lần suýt bị địch phát hiện nhưng rồi cũng qua. Mỗi kỷ niệm với cụ như một phần ký ức đáng tự hào, không thể nào quên. Rồi cụ cười bảo mình cao số chứ nhiều lần suýt chết rồi mà cuối cùng vẫn thoát. Có một lần cụ từ bên Lào về mang theo 2 quả lựu đạn, đi dọc suối Sim về tới khu Chòm Sáng (Quang Chiểu) thì dừng lại nghỉ trưa. Đang nằm trong lán, thì bất ngờ thấy tiếng quân giặc quát tháo, cụ bật dậy dựa lưng vào tảng đá, để giấu 2 quả lựu đạn tránh bị chúng phát hiện. Trong đoàn quân đi càn, có ông Hà Văn Liễn, người tham gia du kích cùng cụ Pém đang bị bắt giải đi.

''Lúc đó, tôi lo lắm, chỉ cần anh Liễn lên tiếng hoặc có hành động, cử chỉ gì là tôi sẽ bị bắt ngay, nên tôi đặt tay sẵn lên 2 quả lựu đạn để sẵn sàng sống chết. Nhưng rất may bọn chúng không phát hiện ra tôi. Hai quả lựu đạn sau đó được đưa về tay bộ đội an toàn'' - cụ Pém nhớ lại. Kể đến đó, giọng cụ chùng xuống, những nếp nhăn trên gương

mặt như xô lại, cụ xúc động tâm sự: ''Cả xã có 20 thanh niên tham gia Đội du kích Tây Tiến thì phần lớn đều đã hi sinh tại chiến trường. Ông nhà thơ Quang Dũng đã nói rất đúng khi viết câu thơ ''Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...''

Được gặp Bác Hồ và những kỷ vật không thể quên

Năm 1952, bộ đội lại hành quân Tây Tiến, cụ không những tiếp tục tham gia du kích mà còn vận động được 22 thanh niên địa phương giác ngộ Cách mạng, đi theo bộ đội. Cuối năm đó, cụ được giao nhiệm vụ làm Phó Công an xã liên tục trong nhiều năm liền, sau đó làm Chủ tịch xã và được đại diện cho đồng bào các dân tộc thiểu số biên giới phía Tây Thanh Hóa ra Thủ đô Hà Nội dự mít tinh Quốc khánh.

Năm 1963, khi về Hà Nội dự Đại hội ''Bảo vệ trị an toàn miền Bắc năm 1963 - 1964'', cụ Pém vinh dự được gặp Bác Hồ. Ông cụ phấn khởi kể lại: ''Lúc tôi được mời đi dự Đại hội, tôi không nghĩ lại vinh dự được gặp Bác, nên khi bất ngờ thấy Bác Hồ xuất hiện, tôi vui mừng, hạnh phúc và xúc động lắm. Không những được gặp Bác, mà lại còn được Bác khen nữa. Trong Đại hội, Bác khen xã Quang Chiểu đoàn kết tốt. Một xã biên giới xa huyện, xa tỉnh, xa Trung ương, nhưng cán bộ một lòng theo Đảng, đồng bào các dân tộc thiểu số với bộ đội, với công an đoàn kết tốt giúp đỡ lẫn nhau. Bác vừa dứt lời, các đại biểu trong hội trường đều vỗ tay hoan hô''.

''Rồi bất ngờ Bác hỏi có ai ở Quang Chiểu không? Tôi liền đứng lên nói to: Thưa Bác có con! Bác hỏi thăm, tuyên dương tôi ngay giữa hội trường trước những tràng vỗ tay không ngớt làm tôi vui quá đỏ hết cả mặt''.

''Khi rời Thủ đô, tôi còn được Bác tặng cho một túi quà gồm có 1 chiếc đèn pin, 2 đôi pin và 4m vải lụa đỏ. Hôm tôi về, cả xã kéo đến hội trường rất đông để nghe tôi kể chuyện được gặp Bác Hồ. Những món quà Bác tặng tôi đã dành tặng lại 4m vải lụa cho mẹ già, người đã sinh và nuôi tôi khôn lớn. Mẹ tôi cũng không dùng tấm vải đó để may quần áo hay làm gì mà giữ nó rất cẩn thận. Ngày mẹ qua đời, gia đình đã dùng tấm vải quý đó để khâm liệm cho mẹ'' - cụ Pém xúc động nhớ lại...

Nguyễn Thùy