Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ sau Thế chiến thứ 2 đến nay
Nhà nước Việt Nam chiếm hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất từ thế kỷ XVII, từ đó đã thực hiện thật sự liên tục và hòa bình chủ quyền đó.
Trong các phần trước của loạt bài: CHỦ QUYỀN HOÀNG SA, TRƯỜNG SA NHÌN TỪ CÔNG PHÁP QUỐC TẾ, chúng tôi đã đưa ra các bằng chứng rõ ràng rằng, ít nhất từ thế kỷ XVII cho đến hết thời kỳ thuộc địa, Việt Nam đã chiếm hữu, quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục, hòa bình và phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế. Vấn đề còn lại là sự tiếp nối danh nghĩa này ở thời kỳ sau giai đoạn thuộc địa đến nay.
Ngoài ra, phía Trung Quốc lập luận rằng, với tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1958, Việt Nam đã từ bỏ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Sự thật của vấn đề này như thế nào? Luật pháp quốc tế có thể rút ra từ đó kết luận gì về quan điểm liên tục của danh nghĩa pháp lý?
Năm 1951, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đề cập về chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Ý định ấy kèm theo việc chiếm đóng thực tế một bộ phận vào năm 1956 và toàn bộ quần đảo này năm 1974. Nhưng sự chiếm đóng này không thể chuyển hóa thành một danh nghĩa pháp lý. Pháp luật quốc tế hiện đại nghiêm cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Cụ thể, Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc nêu rõ: “lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Cũng năm này, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đưa ra yêu sách đối với các đảo Trường Sa. Nhưng đó cũng là một yêu sách trừu tượng, không phải là một danh nghĩa lặp lại của thời kỳ trước, cũng không phải là quyền được rút ra từ việc quản lý thực sự. Việc chiếm đóng một bộ phận quần đảo này chỉ xảy ra rất gần đây (1988) và là kết quả của một hành động quân sự.
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu nhấn mạnh, việc chiếm đóng bằng vũ lực không thể là cơ sở của một quyền: “Trung Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử, đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Với quần đảo Trường Sa, chính quyền nước này cũng không có quyền gì mà chỉ chiếm bằng vũ lực. Điều này không thể được xem là một quyền theo luật pháp quốc tế.
Tôi đã nghiên cứu nhưng chưa tìm được những giấy tờ nào về sự có mặt hoặc quản lý thực sự của Trung Quốc. Thậm chí trong những cuộc thương lượng, họ vẫn không nắm rõ vấn đề, nhầm lẫn. Họ chủ yếu dựa vào vũ lực”.
Trong khi đó, đại diện của nước Việt Nam sau khi người Pháp ra đi, Chính phủ Nam Việt Nam luôn khẳng định duy trì quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bằng nhiều Nghị định về quản lý các đảo, như Nghị định về quần đào Hoàng Sa được ký ngày 13/7/1961 thành lập đơn vị hành chính Định Hải; Nghị định ngày 21/10/1969 gộp xã đó với xã Hoa Long; hay việc sáp nhập các đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy ngày 22/10/1956…
Tháng Giêng năm 1974, lực lượng vũ trang Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Ngay khi đó, Chính phủ Nam Việt Nam đã đưa ra lời phản đối lên Liên hợp quốc, công bố sách trắng về các quần đảo và lên án mạnh mẽ chống lại các hành động bất hợp pháp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Chính quyền Sài Gòn đã sử dụng diễn đàn tại khóa hợp thứ hai của Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển tại Caracas năm 1974 để khẳng định lại các quyền của mình đối với hai quần đảo này.
Các yếu tố đó đủ để thấy rằng, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì tuyên bố chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Việc phân chia lãnh thổ ở vĩ tuyến 170 đã đặt hai quần đảo này vào lãnh thổ Nam Việt Nam. Như vậy, chính quyền Nam Việt Nam và chỉ chính quyền này được phát biểu về các đảo và họ đã làm việc đó. Nhưng vì người Trung Quốc lại sử dụng thái độ của các Chính phủ Việt Nam khác để làm căn cứ xác lập chủ quyền của mình nên cần phải phân tích khách quan thái độ đó.
Trong năm 1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhắc lại rằng, “chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc”. Như vậy, hai chính phủ khẳng định mình là đại diện cho Nam Việt Nam (được trao quyền quản lý lãnh thổ hai quần đảo) đã có chung một thái độ về vấn đề này, không làm đứt mạch chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo.
Tuy nhiên, Trung Quốc lập luận rằng đã có sự từ bỏ danh nghĩa chủ quyền từ phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đó là tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ công hòa, ông Phạm Văn Đồng, ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Công hàm của ông Phạm Văn Đồng nói như sau: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lí rõ, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành lời tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định đó và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.”
Việc phân chia lãnh thổ ở vĩ tuyến 17o đã đặt hai quần đảo vào lãnh thổ Nam Việt Nam. Vì thế, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu cho rằng, Việt Nam Dân chủ cộng hòa không phải là chính phủ, về mặt lãnh thổ, có thẩm quyền đối với các quần đảo. Người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có quyền lực!
Quan trọng hơn, ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM cho rằng: “Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng như Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay chưa bao giờ lên tiếng phủ nhận hoặc ra Nghị quyết từ bỏ chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.” .
Hơn nữa, trong chiến tranh, vì lợi ích quân sự chung, bên này hay bên kia có thể sử dụng lãnh thổ láng giềng hay dàn xếp lãnh thổ tạm thời. Và luật pháp quốc tế không thể rút ra từ những việc như vậy các kết luận về tính liên tục của danh nghĩa pháp lý.
Như vậy, với vị thế là Nhà nước kế thừa chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cùng các tuyên bố không mang tính ràng buộc và hiệu quả pháp lý của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam, rõ ràng, có đầy đủ cơ sở để khẳng định chủ quyền hợp pháp của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Tuy nhiên, những năm sau 1975, Trung Quốc tiếp tục duy trì việc chiếm đóng bằng quân sự trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Đối với quần đảo Trường Sa, sau tháng 4.1975, quân đội nhân dân Việt Nam thay thế các đội quân của chính quyền Sài Gòn trên các đảo.
Nhưng tháng 3/1988, Trung Quốc lại đưa quân đội đến một số bãi ở Trường Sa: một cuộc đụng độ hải quân dẫn đến việc mất một số tàu Việt Nam và một số thủy thủ Việt Nam hy sinh. Và từ ngày đó, Hải quân Trung Quốc có mặt tại quần đảo này. Cùng với Trung Quốc, Philippin đã mở rộng yêu sách của mình đối với một bộ phận quần đảo. Đài Loan cũng giữ các yêu sách của mình. Malaysia, đến muộn hơn, lập luận rằng, họ cũng có một số quyền.
Trong khi đó, Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình đối với toàn bộ hai quần đảo. Yêu sách này là sự liên tục các quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam từ xa xưa, sau đó là của Pháp thay mặt cho nước Việt Nam thuộc địa và đã có sự chiếm đóng thật sự hai quần đảo.
Và liên tục từ đó đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Theo công pháp quốc tế, việc sở hữu một lãnh thổ không chấm dứt chỉ vì mất đi sự chiếm giữ vật chất. Nói cách khác, sự gián đoạn các biểu hiện vật chất tự nó không làm gián đoạn chủ quyền nếu như không có ý định từ bỏ lãnh thổ đó một cách rõ ràng.
Như vậy, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử-pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu, quản lý hai quần đảo một cách liên tục, hòa bình và phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, để hỗ trợ yêu sách chủ quyền phi lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của mình, Trung Quốc đã và đang tiến hành các hoạt động củng cố yêu sách chủ quyền cả bằng hoạt động lập pháp và trên thực tế như nâng cấp Hải Nam thành tỉnh thứ 30 của nước này, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa. Đặc biệt, năm 2007, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam, trực tiếp quản lý 3 quần đảo Hoàng Sa (tên Trung Quốc gọi là Tây Sa), Trường Sa (Nam Sa) và Đông Sa, tuyên truyền thành phố này rộng bằng ¼ lãnh thổ lục địa Trung Quốc,vv…
Những hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên.
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hồ Xuân Sơn nhấn mạnh, Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế nhằm giữ gìn hòa bình, ổn định trên biển Đông và khu vực: “Đối với những vấn đề đang tranh chấp này, chúng ta chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình dựa trên những căn cứ của luật pháp quốc tế. Trong thời gian đi tìm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề tranh chấp trên Biển Đông thì phải duy trì được hòa bình và ổn định. Chúng tôi cho rằng, một trong những biện pháp tốt nhất là thực hiện những cam kết trong DOC, không làm phức tạp tình hình, giữ nguyên hiện trạng. Chúng ta sẽ nghiêm túc thực hiện và vận động các nước nghiêm chỉnh thực hiện cam kết này.”.
Theo Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
VOV